Võ Long Triều
Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ 5 ngày của ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành
Ủy Hà Nội từ 21-25/5/2014, giữa lúc quan hệ Việt-Trung xấu nhứt, căng
thẳng tột cùng do giàn khoan HD-981 của Trung Quốc hạ đặt trong vùng
biển thuộc đặt quyền kinh tế Việt Nam, gây ra nhiều gia chạm giữa các
tàu bảo vệ của Trung Quốc và tàu hải giám Việt Nam.
Ông Phạm Quang Nghị được dư luận xem là người thân tín của Tổng Bí
Thư Nguyễn Phú Trọng và là nhân vật có khả năng thay thế ông Trọng lãnh
đạo đảng cộng sản Việt Nam trong kỳ đại hội đảng sắp tới. Ông Nghị chỉ
là thành viên Bộ chính trị không giữ một trọng trách gì, nhưng được tiếp
xúc với nhiều nhân vật cao cấp Mỹ. Do đó có thể hiểu là Bộ chính trị đã
gởi một tín hiệu cho chính phủ Hoa Kỳ rằng Việt Nam muốn tiếp cận với
Mỹ. Đúng hay sai?
Người Mỹ muốn gì?
Thông qua những chuyện xảy ra trong tháng Tám này cho thấy nhận xét
đó là đúng, trong bối cảnh hiện tại cả hai quốc gia Mỹ-Việt đều muốn
tiếp cận lẫn nhau. Việt Nam đang bị Trung Quốc áp chế nặng nề mà không
tìm ra sự hỗ trợ nào để “Thoát Trung” ngoài Mỹ. Hoa Kỳ đang có mục đích
bao vây Trung Quốc để kềm chế sự hung hăng của con hổ Bắc Kinh đang trở
thành mối hiểm họa cho Hòa bình thế giới.
Ngày 04/8/2014, Thượng Nghị Sĩ Bob Corker thành viên cao cấp Ủy Ban
đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, sang viếng thăm Việt Nam và bày tỏ quan
ngại về diễn biến tình hình ở Biển Đông. Ông Bob corker tuyên bố ủng hộ
việc đẩy nhanh sự triển khai các nội dung hợp tác Mỹ-Việt trong khuôn
khổ đối tác toàn diện, và ông cũng thông báo Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ việc
dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Tiếp đó ngày 7/8/2014, hai Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Mc Cain thuộc đảng
Cộng Hòa và Seldon Whitehouse thuộc đảng Dân Chủ, bất ngờ đến thăm Việt
Nam liền sau chuyến đi của Thượng nghị sĩ Bob Corker. Đài VOA thông báo,
chiều ngày 8/8/2014 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp phái đoàn Thượng
Nghị Sĩ Mỹ tại trụ sở Trung Ương đảng cộng sản VN ở Hà Nội. Ông Nguyễn
Phú Trọng khẳng định: “Đảng và nhà nước VN coi Hoa Kỳ là một đối tác
quan trọng hàng đầu của Việt Nam, ông ủng hộ việc thúc đẩy quan hệ
Việt-Mỹ ở các cấp độ và trên các lĩnh vực phù hợp với lợi ích của nhân
dân hai nước”. Ông cũng mong muốn hai bên sẽ có nhiều biện pháp tích cực
để triển khai có hiệu quả đối tác toàn diện và thiết thực.
Về phía Hoa Kỳ, trong cuộc họp báo cùng ngày tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Mc Cain tuyên bố:
- Về phía chúng tôi đã sẵn sàng đáp ứng thách đố này với suy nghĩ và hành động mới.
- Chúng tôi sẵn sàng hoàn tất một Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương ở tiêu chuẩn cao với Việt Nam là một đối tác trọn vẹn.
- Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự giữa chúng ta, và
tăng số lần chiến thuyền Hoa Kỳ cập bến Việt Nam theo như Hà Nội cho
phép. Không phải để thiết lập căn cứ mà để tăng cường sự tiếp cận.
- Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hỗ trợ an ninh nhằm giúp Việt Nam
nâng cao khả năng theo dõi trong lãnh vựa hàng hải và năng lực bảo vệ
chủ quyền của mình.
Ông Mc Cain nói thêm: “trong mục đích ấy tôi tin Hoa Kỳ sẽ bắt đầu
nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí sát thương”. Thượng Nghị Sĩ Seldon
Whitehouse nói cụ thể hơn là Hoa Kỳ có thể hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí
sát thương cho Việt Nam vào tháng Chín năm nay. Ông Mc Cain hứa sẽ bắt
đầu làm việc ngay sau khi ông trở về Hoa Kỳ để thực hiện những gì ông đã
hứa với Việt Nam. Tuy nhiên ông cũng nhắc lại lời tuyên bố của Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Dân chủ là xu hướng tất yếu trong quá trình phát
triển của nhân loại. Chế độ ở Việt Nam phải làm tốt hơn về dân chủ và
đảng cộng sản Việt Nam phải giương cao ngọn cờ dân chủ”.
Ông Mc Cain kết luận: “Tôi hy vọng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng
ghi nhận nầy thành những hành động mạnh dạn, chẳng hạn như trả tự do
cho các tù nhân lương tâm, thực hiện dân chủ nhân quyền để “làm nền tảng
cho Hoa Kỳ và Việt Nam xây dựng một quan hệ đối tác chiến lược bền
vững”, dựa trên những giá trị chung mà hai quốc gia có thể có.
Tiếp đó ngày 14/8/2014, Đại Tướng Martin Dempsey – là Chủ tịch hội
đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân đầu tiên của Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam
trong bốn ngày. Tướng Dempsey tuyên bố tại thành phố Sài Gòn: “Lĩnh vực
hàng hải là quan tâm chung và lớn nhứt hiện nay của chúng ta”. Ông nói:
“Tôi không yêu cầu Việt Nam chọn làm bạn của Mỹ hay Trung Quốc”. Nhưng
ông lại xác định, Mỹ có thể giúp tăng cường năng lực hải quân Việt Nam
một khi lệnh cấm vận vũ khí được xóa bỏ.
Giới chức Mỹ cho rằng chuyến viếng thăm của Đại Tướng Dempsey là một
tín hiệu gởi cho khu vực, rằng Mỹ nghiêm túc trong việc tái cân bằng ở
Châu Á-Thái Bình Dương.
Hà Nội dám “Thoát Trung” không?
Bên cạnh đó cũng ngày 14/8/2014, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Cộng
Hòa Czechoslovakia, Tướng Peter Pavel chính thức đến thăm Việt Nam để
thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương và phát triển tình hữu nghị giữa
quân đội và nhân dân hai nước.
Căn cứ trên những lời phát biểu của các Thượng Nghị sĩ và của Đại
Tướng Demsey thì rõ ràng Mỹ mở rộng con đường hợp tác quân sự với Việt
Nam và từ đó Hà Nội sẽ có cơ hội “Thoát Trung”, nếu Bộ chính trị đảng
cộng sản dám từ bỏ chính sách đu dây đối với Trung Quốc trong khi quan
thầy Bắc Kinh và “đồng chí tốt” chủ trương thôn tính Việt Nam ngày càng
hiện rõ. Hình như Bộ chính trị và đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi
thái độ đối với nước “láng giềng hữu nghị”, người “đồng chí tốt” luôn có
dã tâm.
Từ lời phát biểu của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khi tiếp hai
Thượng Nghị Sĩ Mỹ, có thể hiểu rằng Việt Nam đã thay đổi chính sách, sẽ
nghiêng về phía Mỹ và Tây phương.
Thực tế Việt Nam là quốc gia đang lâm cảnh vô cùng khó khăn trong
vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc. Bắc Kinh lấn áp
ngày càng quá đáng, thậm chí có dã tâm xâm chiếm trọn đất nước Việt Nam.
Sở dĩ Hà Nội chần chờ không dám phản kháng vì bị vướng mắc công hàm của
cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, và sự ký kết ở Hội nghị Thành Đô, quan
trọng hơn cả là vì sức mạnh quân sự của cường quốc láng giềng luôn luôn
hành động ngang ngược đe dọa cả vùng Đông Nam Á. Vì vậy đã đến lúc Hà
Nội phải tìm cách tiếp cận với cường quốc đứng đầu thế giới là Mỹ, để hy
vọng thoát khỏi búa rìu của sự bành trướng Hán tộc. Sự tiếp cận với Mỹ
cũng hợp với 67% đa số quần chúng Việt Nam theo kết quả một cuộc thăm dò
gần đây. Và cũng phù hợp với những toan tính của Hoa Kỳ đang tìm mọi
cách siết chặc vòng vây Trung Quốc. Tóm lại cả hai quốc gia đều có nhu
cầu quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác quân sự song phương.
Tuy nhiên trên chính trường quốc tế, xưa nay mọi sự hợp tác, mọi
thỏa hiệp đồng minh đều dựa vào quyền lợi và nhu cầu giai đoạn. Nếu xét
qua lời tuyên bố của Ngoại Trưởng John Kerry thuyết trình về chiến lược
xoay trục của Hoa Kỳ tại East West Center ở Hawai “Một mối quan hệ mang
tính xây dựng giữa Mỹ và Trung Quốc là cần thiết để duy trì sự ổn định
trong khu vực, bất chấp hành vi của Bắc kinh ỡ biển Đông”, có thể hiểu
rằng Hoa Kỳ cần có một mối quan hệ Mỹ - Trung mang tính xây dựng để duy
trì hòa bình trong khu vực.
Thẳng thừng mà xét, quan hệ Mỹ-Trung ngày nay không khác gì sự kình
chống Hoa Kỳ- Liên Xô ngày trước. Một loại chiến tranh lạnh mà không bên
nào dám để cho nó trở thành nóng. Bất chấp hành vi của Bắc Kinh ở biển
Đông, dưới mắt cường Quốc Hoa Kỳ thế giới sẽ ổn định miễn sao Trung Quốc
bằng lòng hợp tác xây dựng hòa bình duy trì an ninh và cùng nhau hành
động cho đôi bên đều có lợi. Gần đúng với ý nghĩ của Tập Cận Bình và
Barack Obama thỏa thuận ở Roncho Mirage, California.
Hiện tại cho dù Hà Nội tìm được sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ để tạm
thời buộc Trung Quốc phải ngưng lấn chiếm, nhưng nếu Hà Nội cứ một mực
khăng khăng thực hiện độc tài độc đảng, đàn áp dân chúng mà không lợi
dụng cơ hội tạm thời hòa hoãn, nới rộng dân chủ, thực hiện nhân quyền,
bài trừ tham nhũng, thay đổi chính sách đất đai, giải quyết khiếu kiện
của dân oan, bằng mọi cách xoa dịu quần chúng, đoàn kết dân tộc..., thì
một ngày nào đó nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc tìm được sự thỏa thuận đôi bên
đều có lợi, họ sẽ bỏ rơi Hà Nội, như họ đang rút quân đội khỏi Iraq và
Afganistan vì nội bộ bất đồng, vì dân chúng Hoa Kỳ chán ghét chiến
tranh, cũng như Tổng Thống Nixon thỏa thuận với Mao Trạch Đông, bỏ rơi
Việt Nam Cộng Hòa. Trong trường hợp đó Hà nội cũng sẽ lâm vào cảnh bị
Trung Quốc lấn áp nặng nề hơn ngày nay, vì cần cho “đồng chí phản bội”
một bài học đích đáng.