Trần Kinh Nghị
Một trong những chủ đề luôn gây tranh cãi trong lịch sử VN là vai trò
của Triệu Đà và nước NamViệt. Trong khi các triều đại TQ không thừa
nhận vai trò của Triệu Đà và Nam Việt, thì các vua chúa VN trước thời kỳ
Hậu Lê đều đã coi Triệu Đà là "bậc tiền bối", nhưng từ thời Hậu Lê về
sau bắt đầu có tư tưởng bác bỏ; và sau CM tháng Tám cũng tiếp tục làm
ngơ không bàn lại chuyện này. Tuy nhiên trong bối cảnh ngày nay khi tái
xuất hiện của CN bành trướng đại Hán đang đe dọa nền độc lập tự chủ của
VN thì có lẽ không thể không bàn lại chủ đề này không chỉ vì sự thật
lịch sử mà còn vì yêu cầu thiết thực của nó.
Để cung cấp thêm dữ liệu tham khảo về chủ đề nói trên, trang chủ Bách Việt xin mạn phép trích đăng lại nguyên văn tài liệu dưới đây của tạp chí Nghiên cứu Lịch sử http://nghiencuulichsu.com/2014/07/04/nhan-thuc-cua-le-van-huu-va-ngo-si-lien-ve-lich-su-viet-nam/ để thiện tham khảo -Bách Việt.
Để cung cấp thêm dữ liệu tham khảo về chủ đề nói trên, trang chủ Bách Việt xin mạn phép trích đăng lại nguyên văn tài liệu dưới đây của tạp chí Nghiên cứu Lịch sử http://nghiencuulichsu.com/2014/07/04/nhan-thuc-cua-le-van-huu-va-ngo-si-lien-ve-lich-su-viet-nam/ để thiện tham khảo -Bách Việt.
Nhận thức của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam
This entry was posted on Tháng Bảy 4, 2014, in Lịch sử Việt Nam and tagged Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Bookmark the permalink. Để lại bình luận
“Một so sánh về nhận thức của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên
về lịch sử Việt Nam” [“Lê Văn Hưu and Ngô Sĩ Liên - A Comparative of
their Perception of Vietnamese History”] là tựa đề tiểu luận của Yu
Insun, nguyên giáo sư ban Sử Á châu tại Đại học Quốc gia Hán Thành
[Seoul National University].
Tiểu luận này đã được tình bày tại Hội nghị “Vietnam: Beyond the
Frontiers” do Viện Quốc tế, Đại học California tại Los Angeles tổ chức
trong hai ngày 11-12, 2001.
Nghiên cứu này của giáo sư Insun đã đăng lại [p. 47-71] trong cuốn
“Viet Nam: Borderless Histories” do Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid là
chủ biên và University of Wisconsin Press phát hành năm 2006. Bạn đọc có
thể tham khảo nguyên bản Anh ngữ tại đây.
Dưới đây bản lược dịch và nhận định về tiểu luận của Insun đã đăng
trên Tạp chí Truyền Thông Communications, số 41 & 42, Thu Đông 2011,
trang 156-168.
Cho tới giữa thập niên 80 thế kỷ XX, Hà Nội vẫn coi quốc sử như một
côngcụ phục vụ các chính sách của Nhà nước. Giới sử gia ngoại quốc đặt
lại vấn đề: sử quan ngày trước, trong thời phong kiến, nhận thức quốc sử
ra sao? Đã có một số sử gia ngoại quốc lưu ý tới vấn đề đó. Trong công
trình nghiên cứu này, Yu Insun trả lời câu hỏi trên bằng cách so sánh
quan điểm sử học của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, theo thứ tự
là sử quan đời Trần và sử quan đời Lê, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký và bộ
Sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, (gọi tắt là Toàn Thư).
Theo bộ sử Đại Việt Toàn Thư, vua Trần Thánh Tông, trị vì từ năm
1258 tới 1278, chỉ thị cho Lê Văn Hưu tham khảo sách sử và soạn thành bộ
Đại Việt Sử Ký, gồm 30 quyển, dựa theo phương pháp viết sử của Tư Mã
Quang, tác giả bộ sử Tư Trị Thông Giám của Trung Quốc. Nội dung bộ sử
của Lê Văn Hưu, bắt đầu từ Triệu Đà, trị vì vào khoảng cuối thế kỷ III
và chấm dứt vào cuối đời nhà Lý (1225). Ngày nay giới sử học trong và cả
ngoài Việt Nam chỉ tìm thấy bộ Toàn Thư gồm 15 cuốn.
Bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, lấy bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, Trung
Quốc, làm mẫu mực, là một bộ sử biên niên, khởi từ đời Hồng Bàng, khoảng
ba ngàn năm trước công nguyên, kéo dài tới cuối nhà Lê vào năm 1428.
Năm 1428,vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chỉ thị cho các sử thần thâu thập
sử liệu gửi về tàng trữ tại Đông Các. Ngô Sĩ Liên được chỉ định tham dự
vụ thâu thập sử liệu nói trên, nhưng ông có tang thân phụ, phải về quê
cư tang. Hết tang, ông trở lại viện Đông Các thời việc thâu thập sử liệu
đã hoàn tất. Ngô Sĩ Liên, sử dụng những sử liệu do ông thu thập được,
trong số đó có bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, đối chiếu sử liệu Việt
Nam với sử liệu Trung Quốc, viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, gồm
có Ngoại Kỷ, Bản Kỷ và Lê Thái Tổ Kỷ, dâng lên vua Lê Thánh Tông năm
1479. Số sử liệu tàng trữ tại viện Đông Các đã thất lạc, chỉ còn bộ Toàn
Thư truyền lại tới ngày nay. Sau đó, sử quan dưới triều Lê ghi chép
việc nước viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên.
Hai bộ sử Đại Việt Sử Ký và Toàn Thư, tạm đủ cho việc đối chiếu quan
điểm sử học của hai sử quan Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên. Trong Đại Việt
Sử Ký, Lê Văn Hưu viết ra 30 lời bàn. Trong Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên để lại
170 lời bàn. Trong số đó, cho tới hết triều nhà Lý, sử quan Ngô Sĩ Liên
viết 83 lời bàn: tức là có 56 lời bàn nhiều hơn tổng số lới bàn của Lê
Văn Hưu. Có nhiều lời bàn, cả hai sử quan cùng bàn về một sử kiện. Đối
chiếu lời bàn của hai sử quan trong những trường hợp này giúp người đọc
dễ bề so sánh quan điểm sử học của hai nhà viết sử. Tác giả bộ Đại Việt
Sử Ký Tục Biên không ghi thêm lời bàn.
Lê Văn Hưu
Chế độ truyền ngôi vua cho con để làm Thái Thượng Hoàng bắt đầu từ
năm 1258 dưới triều vua Trần Thái Tông gây thêm mối căng thẳng ngoại
giao giữa hai nước. Hơn nữa tục nhà Trần cho các hoàng tử công chúa
thành hôn với nhau, nhắm mục đích củng cố vương quyền, cùng sự việc nho
giả không được trọng dụng trong triều đình, đều đi ngược lại với tục lệ
Trung Quốc. Thế nên việc vua Trần sai Lê Văn Hưu viết Đại Việt Sử Ký 大 史
có thể coi như triều đình nhà Trần muốn chứng tỏ quyền bình đẳng và sự
độc lập giữa nước Đại Việt với triều đình nhà Nguyên khi đó đang đô hộ
Trung Quốc.Lê Văn Hưu người Thanh Hóa, sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ
93 tuổi. Ông đậu tiến sĩ năm 1247. Sau khi phục vụ trong nhiều chức vụ
trong triều, ông được bổ nhiệm làm Chưởng Sử Quán, kiêm binh bộ thượng
thư. Nhiều sử gia nghiên cứu về Lê Văn Hưu đặt câu hỏi: có những sử kiện
quan trọng nào đã xẩy ra từ năm năm 1230 khi Lê Văn Hưu ra đời tới năm
1272 khi ông hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký? Hiển nhiên sử kiện quan trọng
nhất là thời kỳ quân Nguyên xâm lăng nước Đại Việt năm 1257, tiếp theo
là cuộc chiến thắng của Trần Hưng Đạo đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi.
Triều đình nhà Nguyên phải phong cho vua Trần Thánh Tông, năm 1261 làm
An Nam Vương, từ đó việc bang giao giữa Nhà Nguyên với nhà Trần mới trở
lại bình thường. Tuy nhiên nhà Trần luôn luôn phải đề phòng nạn xâm lăng
của nhà Nguyên. Năm 1271, nhân dịp đăng quang vua Nguyên đòi vua Trần
sang chầu. Năm sau vua Nguyên lại gửi ba sứ thần sang Đại Việt tìm cột
đồng do Mã Viện trồng để đánh dấu biên thùy Hoa-Việt sau khi thắng quân
Hai Bà Trưng năm 42 Tây lịch.
Việc Lê Văn Hưu chọn Triệu Đà 佗 làm khởi điểm cho việc dựng nước Đại
Việt là bằng chứng sự bình dằng giữa hai nước Hoa-Việt. Điều đó căn cứ
trên truyền thuyết lịch sử dưới đây. Năm 196 trước Tây lịch. Sau khi
thống nhất được đất nước, Hán Cao Tổ 漢 リ 祖 sai sứ là Lục Giả x ネ sang
Nam Việt phong vương cho Vũ Vương Triệu Đà. Gặp sứ giả nhà Hán, Triệu Đà
hỏi: “Ta với Cao Tổ ai lớn hơn ai?” Lục Giả trả lời Hán Cao Tổ trị vì
một nước lớn hơn ắt là lớn hơn.” Triệu Đà hỏi tiếp: “Nếu ta sinh ra tại
Trung Quốc, liệu ta có lớn bằng Cao Tổ không?”
Sau khi Lữ Hậu 呂后 tiếm ngôi nhà Hán, việc bang giao giữa Nam Việt và
nhà Hán trở nên căng thẳng hơn. Năm 183 trước Tây lịch, Triệu Đà tự
xưng là Vũ Đế ngang hàng với các Hoàng Đế nhà Hán. Sau khi Hán Văn Đế 漢 文
帝 lên ngôi, một mặt Triệu Đà sai sứ sang triều cống nhà Hán, để duy trì
hoà bình giữa hai nước, một mặt vẫn tự coi là ngang hàng với hoàng đế
nhà Hán.
Suốt thời gian Lê Văn Hưu làm quan trong triều nhà Trần, nước Đại
Việt luôn luôn bị nạn xâm lăng của Bắc Triều đe dọa, nên chắc chắn là
ông thấu hiểu tầm quan trọng của việc duy trì nền độc lập, cùng việc
tranh đấu để tránh những mối nhục trong việc bang giao. Triệu Đà là vị
vua khéo léo giữ được độc lập cho đất nước mà không hy sinh sự đồng đẳng
giữa hai nước Nam Việt và Trung Quốc nên không bị mất mặt trên đường
ngoại giao. Đó là những lý do khiến Lê Văn Hưu coi Triệu Đà như người
sáng lập ra nước Việt Nam. Dĩ nhiên Lê Văn Hưu cũng biết đến những vị
lãnh đạo khai quốc khác trước Triệu Đà, nhưng hình ảnh những vị khai
quốc đó mờ nhạt trước hình ảnh Triệu Đà vì những vị lãnh đạo khai quốc
trước Triệu Đà đều bằng lòng với danh hiệu vương 王 do triều đình Trung
Quốc phong cho, và không dám nghĩ tới việc xưng đế 帝. Bình về Triệu Đà,
Lê Văn Hưu viết cái lớn lao của người trị nước không phải là cái lớn lao
của diện tích đất nước người đó mà là cái đức 德 của người đó. Lời đó là
lời Lê Văn Hưu bác bỏ lời Lục Giả so sánh Triệu Đà với Hán Cao Tổ trên
đây. Trong lời Lê Văn Hưu, chữ đức không chỉ trọn vẹn là chữ đức của đạo
nho. Chứ đức này là chữ đức của một vị đế, biết hạ mình để giữ nước,
như lời Lão Tử Đạo Đức Kinh. Lê Văn Hưu đã đoan kết là hai vị vua đầu
nhà Trần, Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông đều đã theo đúng gương Triệu
Đà, một mặt giữ viện toàn được đất nước, mặt khác mềm mỏng giữ được
bình đẳng ngoại giao với triều nhà Nguyên.
Lê Văn Hưu căn cứ trên mức bình đẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam để
ghi làm năm khởi đầu nền độc lập của nước Việt Nam đối với Trung Quốc.
Ông không chọn năm 939, năm Ngô Quyền xưng vương, một năm sau khi
đánh bại quân Nam Hán; mà ông chọn năm 966, năm Đinh Bộ Lĩnh xưng đế sau
khi dẹp xong loạn mười Hai Xứ Quân, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt
kinh đô tại Hoa Lư. Ông công nhận công lao Ngô Quyền đã chiến thắng quân
Nam Hán, nhưng ông chỉ trí Ngô Quyền không xưng đế, không chọn quốc
hiệu, không đặt kinh đô, do đó Ngô Quyền không hoàn tất sự nghiệp dựng
nước cho người Việt. Đinh Bộ Lĩnh, theo Lê Văn Hưu mới chính là người
Trời sai xuống, dẹp tan loạn xứ quân, tiếp tục truyền thống dựng nước
của Triệu Vũ Đế.
Đặt cao nền độc lập của người Lạc Việt, Lê Văn Hưu kết tội những ai
đã làm mất nền tự chủ của nước nhà. Ông nghiêm khắc chỉ trích tể tướng
Lữ Gia 呂 嘉. Vào cuối năm 113 trước Tây lịch. Dưới triều vua Triệu Ai
Vương 哀 王, vua nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí 安 國 少 季, sang Nam Việt. Sứ
nhà Hán nguyên là tình nhân của hoàng hậu Cù Thị 樛 氏, bà hoàng này vốn
chỉ là tỳ thiếp của Triệu Minh Vương, nên cùng dỗ dành Ai vương đem nước
Nam Việt về dâng nhà Hán. Lữ Gia biết mưu này, can ngăn không được, nên
cùng mấy đại thần đem cấm binh vào giết sứ giả nhà Hán, Cù Thị và Ai
vương, tôn Kiến Đức建 德, con trưởng của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt
lên làm vua. Nhà Hán nhân truyện này dấy quân xâm chiếm Nam Việt. Lữ Gia
không chống nổi, và Nam Việt trở thành quân huyện nhà Hán. Việc Lê Văn
Hưu kết tội Lữ Gia không giữ nổi nước chứng tỏ lòng ông thiết tha với
nền tự chủ của Nam Việt.
Tiếp theo, Lê Văn Hưu chỉ trích những nhà lãnh đạo quần chúng, nổi
dậy chống Trung Quốc, nhưng không đạt được tự chủ cho đất nước. Đó là
trường hợp Lý Bí 李 チ (còn đọc là Lý Bôn) dưới triều vua Lương Vũ Đế 梁 武
帝, năm 541 thống lĩnh người nghĩa dũng nổi lên đánh đuổi thái thú Giao
Châu là Tiêu Tư 蕭 諮 về Trung Quốc rồi chiếm giữ thành Long Biên 龍 編.
Theo truyền thống truyền lại từ Triệu Đà, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế,
lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Sau đó vua nhà Lương sai tướng Trần Bá Tiên s
8 先 mang quân sang tái chiếm Giao Châu. Lý Bí thua, phải chạy trốn vào
ẩn trong vùng núi, rồi sau đó bị bệnh chết. Lê Văn Hưu chỉ trích Lý Bí
khá nặng. Ông coi Lý Bý chỉ là một viên tướng trung bình, nhưng đồng
thời ông tiếc cho Lý Bí, trong tay có cả năm chục ngàn quân, đã để lỡ
dịp giành lại tự chủ cho người Nam Việt, chỉ vì tài cầm quân của Lý Bí
không bằng tài cầm quân của Trần Bá Tiên.
Theo Yu Insun, Lê Văn Hưu thay đổi quan điểm về sử học của ông khi
bàn về Hai Bà Trưng. Dẫu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chống triều
đình Trung Quốc, chấm dứt bằng một chiến bại, nhưng tinh thần chiến đấu
giành tự chủ cho đất nước đã ăn sâu vào lòng toàn dân. Điều đó chính là
điều đã giúp người dân nước Đại Việt thành công trong việc đánh đuổi
quân Nguyên.
Vốn là một nhà Nho, Lê Văn Hưu tất tin tưởng rằng người phụ nữ đã
đứng lên giành tự chủ cho đất nước, tất nhiên người trai đất Đại Việt
phải bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn nữa.
Lê Văn Hưu đề cao việc bảo tồn nền tự chủ của đất nước khi ông so
sánh vua Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn 李 公, vị vua khởi nghiệp nhà Lý, và
trị từ 1010 tới 1028 với vua Lê Đại Hành nhà Tiền Lê tên là Lê Hoàn ホ 桓
làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh.
Nhân khi vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang
xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức Đại Hành Hoàng Đế 大L 皇帝. Người
đời sau ca tụng Lê Đại Hành có công phá Tống bình Chiêm, dẹp yên được
loạn nước. Dưới mắt Lê Văn Hưu, Lý Công Uẩn không hơn Lê Hoàn vì công
dựng nước nhưng vì Lý Công Uẩn có đức dầy hơn Lê Hoàn lập ra triều nhà
Lý lâu dải hơn, bởi khi đất nước lâm nguy, ngưòi lãnh đạo không những
cần có tài mà còn cần có cả đức mới giữ được nước lâu dài.
Lê Văn Hưu cho là nhà Tiền Lê không tồn tại lâu dài vì Lê Hoàn đã
không sớm chọn thái tử, khiến khi khi Lê Hoàn vừa băng hà thời đã xẩy ra
việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử kéo dài bẩy tháng. Để cuối
cùng người con út là Long Đĩnh フ cướp ngôi của anh là vua Lê Trung Tông ホ
中 宗 mới lên ngôi được ba ngày. Long Đĩnh là một ông vua vô cùng bạo
ngược, và theo Lê Văn Hưu thì chính Long Đĩnh là người làm đổ ngôi nhà
Tiền Lê.
Đằng khác Lê Văn Hưu chỉ trích triều Lý không sớm chọn thái tử, nên
khó tránh được nạn nội loạn, bởi theo tục nhà Lý, tới khi lâm bệnh nặng,
vua cha mới chọn người có tài năng đảm lược làm người kế vị. Nhà Trần
lấy đó làm gương, nên vua cha sớm chọn thái tử, nhường ngôi cho thái tử
và lên ngôi thái thượng hoàng.
Lê Văn Hưu chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh phong cho năm bà vợ lên ngôi
hoàng hậu. Sau đó, Lê Hoàn cũng như nhiều vua nhà Lý phong chức hoàng
hậu cho nhiều bà vợ. Sụ kiện này chứng tỏ nhà vua muốn củng cố sức mạnh
của triều đình bằng cách liên kết với gia đình các hoàng hậu. Tuy nhiên
cũng vì vậy mà cơ đồ triều chính bị đe dọa bởi nội loạn trong thời kỳ
tuyển chọn người kế vị hay chính trong ngày truyền ngôi.
Lê Văn Hưu còn chỉ trích Lý Công Uẩn chỉ phong vương cho cha, trong
khi vua Thái Tổ nhà Tống phong đế cho thân phụ. Sử gia còn hiểu là việc
phong vương cho cha là do đức vô kỷ của Lý Công Uẩn. Đồng thời ông chỉ
trích Lý Công Uẩn đã sao lãng truyền thống vun đắp tự chủ từ Triệu Đà
truyền xuống.
Cũng vì chủ ý đề cao việc duy trì nền tự chủ của đất nước, nên Lê
Văn Hưu kết tội mọi hành động của các vị vua chúa sao lãng việt đề cao
nền tự chủ. Đó là trường hợp Ngô Xương Văn, con trai của Ngô Quyền. Lê
Văn Hưu ngợi khen Ngô Xương Văn 吳 昌 文về việc ông tha thứ cho Dương Tam
Kha 楊 三 哥 cậu ruột ông về tội cướp ngôi vua của cháu, nhưng ông chỉ
trích Ngô Xương Văn về việc mời Ngô Xương Ngập 吳 昌 岌 về cùng coi việc
nước, khiến từ đó xẩy ra việc Ngô Xương Ngập tranh quyền, thế lực nhà
Ngô mỗi ngày một kém và đất nước lâm vào nạn mười hai xứ quân. Lê Văn
Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tông 李 太 宗 trong việc dẹp giặc Nùng, đã cương
quyết xử tử Nùng Tồn Phúc 儂 存 福 nhưng đã vì lòng từ bi tha cho Nùng Trí
Cao 儂 智 リ và còn gia phong cho y chức Thái Bảo, và chỉ một năm sau Trí
Cao lại làm loạn, và xin phụ thuộc vào Trung Quốc. Lời chỉ trích của Lê
Văn Hưu chứng tỏ mối lo ngại của ông nhân vụ tạo phản của Trí Cao mà mở
đường cho Trung Quốc xâm lăng Nam Việt. Lê Văn Hưu cũng chỉ trích vụ vua
Lý Anh Tông 李 宗 bình Chiêm Thành, lập một vua mới cho Chiêm Thành. Chỉ
ít lâu sau, vị vua này bị một hoàng thân cướp ngôi. Vua Anh Tông phong
vương cho hoàng thân phản loạn đó. Chính vị vua thứ hai này chỉ it năm
sau mang quân xâm phạm đất nước nhà Lý.
Ngoài mối quan tâm về nền tự chủ và hoà bình của đất nước, Lê Văn
Hưu còn nặng lòng về việc tham gia triều chính của nho giả. Ông chỉ
trích vua Lý Thái Tổ, sau khi di đô về Thăng Long đã không xây cất Thái
Miếu cho xứng đáng, như vậy là không tròn chữ hiếu của đạo Nho. Ông còn
chỉ trích việc vua Lý Thái Tổ cho xây cất quá nhiều chùa chiền, làm hao
tài sản quốc gia phí phạm công lực của nhân dân. Chắc chắn là Lê Văn Hưu
phải biết là vua Lý Thái Tổ thủa trẻ đã được nhà sư Phật Giáo chùa Cổ
Pháp tên là Lý Khánh Vân 李 慶 文 nhận làm con nuôi, dậy dỗ thành người,
nhưng phải chăng vì lợi ích quốc gia ông đã thẳng thắn chỉ trích lòng mộ
đạo Phật của nhà vua.
Đằng khác, người đọc sử ghi nhận rằng ngay từ đầu nhà Trần đã có
những kỳ thi kén người tài theo học đạo Nho ra giúp nước. Nhưng trên
thực tế, số nho giả trong triều không nhiều, và không được giữ những địa
vị then chốt.
Cho tới khi quân nhà Nguyên xâm lấn dất Đại Việt, vì nhu cầu ngoại
giao, địa vị nho gia trong triều nhà Trần mới được nâng cao và dần dần
tăng tiến thành một lực lượng chống đối ảnh hưởng Phật Giáo ở trong
triều. Yu Insun cho rằng việc Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tổ trên
đây chỉ là một đường lối khéo léo của sử gia để gián tiếp chỉ trích phe
thân Phật Giáo trong đời Trần.
Ngô Sĩ Liên
Ngô Sĩ Liên người trấn Sơn Nam 山 南, có người nói ông từng theo phò
Lê Lợi ホ 利 trong cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Minh. Ngô Sĩ Liên đậu
tiến sĩ năm 1442, dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ông giữ chức Đô Ngự Sử
dưới triều vua Lê Nhân Tông. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông làm Quốc
Tử Giám Ty Nghiệp, và tham dư vào việc soạn thảo bộ quốc sử. Năm sinh
năm mất của ông không được sách sử ghi chép rõ, nhưng nhiều người tin
rằng ông mất năm 99 tuổi. Với tuổi thọ đó, cuộc đời Ngô Sĩ Liên trải dài
qua nhiều thăng trầm của lịch sử: cuộc suy thoái của nhà Trần và nhà
Hồ; tiếp theo là hai mươi năm đô hộ dưới triều nhà Minh với chính sách
tàn khốc tiêu diệt văn hóa Việt Nam; nhưng quan trọng hơn cả là cuộc
chiến đấu giành tự chủ cho đất nước của Lê Lợi. Từ khi Lê Lợi dựng nên
nhà Lê, ảnh hưởng Khổng Giáo trong triều lớn mạnh cùng số quan gia nho
học ngưòi vùng châu thổ sông Nhị và thắng thế ảnh hưởng Phật Giáo của
nhóm Phật Tử được trọng dụng người vùng Thanh Hóa trong việc triều
chính, và ảnh hưởng Khổng giáo trở thành độc tôn dưới triều vua Lê Thánh
Tông. Trong sinh hoạt tinh thần đó Ngô Sĩ Liên đã trước tác bộ sử Toàn
Thư.
Nhiều sử gia ngày nay tự hỏi lý do nào đã khiến Ngô Sĩ Liên trước
tác bộ sử Toàn Thư, trong khi ông đã từng là một thành viên trong công
cuộc sưu tập bộ quốc sử tàng trữ tại viện Đông Các? Có thể trả lời là
việc soạn thảo bộ quốc sử là một công cuộc gồm nhiều nho giả, thế nên
người tham dự khó bề bày tỏ những lời phê phán bình luận. Bởi vậy, theo
sử gia Wolter(1), Ngô Sĩ Liên đã đơn độc trước tác bộ sử Toàn Thư với
chủ đích là đề cao Khổng Giáo như một cơ động giúp cho người nước Đại
Việt có một học thuyết căn bản để duy trì nền tự chủ trong thời gian đất
nước gặp cơn nguy biến và theo Yu Insun, thì hành động này giúp Ngô Sĩ
Liên đứng được ra ngoài vụ tranh chấp ảnh hưởng giữa Nho Giả vùng châu
thổ sông Nhị với Phật Tử được trọng dụng vùng Thanh Hóa. Trong toàn bộ
Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên viết ra tổng cộng 170 lời bàn, trong số đó có 86
lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới triều nhà Lý; 72 lời bàn về sử kiện xẩy
ra dưới đời nhà Trần và nhà Hồ cùng hai chục năm tranh đấu chiến thắng
quân xâm lược nhà Minh, phần còn lại là lời bàn về sử kiện dưới triều
vua Lê Thái Tổ.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Khổng Học, nhất là Tân Khổng Học ảnh hưởng mãnh liệt trên việc trước
tác của Ngô Sĩ Liên, lời bàn của ông đều đặt trên đạo lý gia tộc và
tương quan giữa vua và dân. Ông tin tưởng chắc chắn rằng đó là hai điểm
quan trọng trong việc trị nước an dân. Năm 1320, khi vua Trần Anh Tông
(tri vì từ 1293-1314) băng hà, ông trích sách Mạnh Tử(2):
天 下 之 本 在 國
Thiên hạ chi bổn tại quốc
國 之 本 在 家
quốc chi bổn tại gia
家 之 本 在?
gia chi bổn tại thân
Nghĩa là: gốc của thiên hạ là nhà nước, gốc của nước là nhà, gốc của
nhà là thân. Rồi Ngô Sĩ Liên thêm: “thân có tu, nhà mới tề, nước mới
trị, điều ấy là khuôn vàng thước ngọc từ đời Nghiêu Thuấn, và đến ngày
nay vẫn thật đúng như vậy.” Do đó ông chỉ trích bất kỳ ai vi phạm nguyên
tắc này.
Ngô Sĩ Liên hết lời ca tụng vua Trần Anh Tông, vì nhà vua dốc lòng
tu thân, thờ phụng cha mẹ, giữ vẹn niềm hòa hảo với họ hàng, và nhất là
thờ kính tổ tiên. Thế nên, theo Ngô Sĩ Liên, triều vua Trần Anh Tông là
một triều thịnh trị, nhân dân sống đời an lạc. Tuy nhiên, ông vẫn còn
chỉ trích vua Trần Anh Tông hãy còn một điều thiếu sót trong lễ quốc
táng Thượng Hoàng Trần Nhân Tông.
Ngô Sĩ Liên cực lục chỉ trích việc làm loạn luân nhân để củng cố cho
ngôi nhà Trần được bền vững. Đó là sự việc Thái Sư Thống Quốc Hành Quân
Chinh Thảo Sự Trần Thủ Độ cưỡng ép vua Trần Thái Tông, giáng Chiêu
Thánh Hoàng Hậu, người đã lấy vua Trần Thái Tông được 12 năm, xuống làm
công chúa, rồi đem chị bà Chiêu Thánh, tức vợ Trần Liễu lên làm Hoàng
Hậu, bởi vì Hoàng Hậu Chiêu Thánh không có con nối dõi và bà chị đã có
thai được ba tháng. Việc phi luân này đã được lập lại dưới Triều vua
Trần Dụ Tông (trị vì từ 1341 tới 1369). Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên còn trách
vua Trần Thái Tông đã hứa gả công chúa cho Trung Thành Vương, rồi cuối
cùng lại gả cho một hoàng thân khác.
Ngô Sĩ Liên tin tưởng là ngôi vua sẽ truyền cho người con trưởng của
vua cha. Nếu Hoàng Hậu không có con nối dõi, con một thứ phi có thể
được phong làm Thái Tử. Trong trường hợp Hoàng Hậu sau đó sinh Hoàng
Nam, Thái Tử con bà thứ phi phải từ chức nhường ngôi cho Hoàng Nam con
bà Hoàng Hậu. Thế nên Ngô Sĩ Liên thương tiếc Hoàng Thân Trần Quốc Chấn
bị sát hại dưới triều vua Trần Minh Tông (trị vì từ 1314 tới 1329) chỉ
vì hoàng thân đã can ngăn việc lập một Hoàng Nam con một bà thứ phi lên
làm Thái Tử, không đợi Hoàng Hậu sinh Hoàng Nam. Ngô Sĩ Liên cũng tin
tưởng là Hoàng Nam em có thể được nối ngôi vua khi Hoàng Nam anh không
đủ khả năng nối ngôi. Thế nên Ngô Sĩ Liên chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh lập
con bà thứ phi là Hạng Lang làm thái tử thay vì truyền ngôi cho con
trưởng con bà Hoàng Hậu là Hạng Liễn vốn là người văn võ toàn tài.
Trong trường hợp Hoàng Đế không có Hoàng Nam nối ngôi, thời phải lập
một ngưòi cháu trai, như trường hợp vua Lý Nhân Tông nhưòng ngôi cho
cháu. Ông cực lực chống lại việc nhường ngôi cho một công chúa như việc
vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng. Theo Ngô Sĩ
Liên thì vua Lý Huệ Tông đã không noi gương vua Lý Nhân Tông nên đã mở
cửa cho Trần Thủ Độ lật đổ ngôi nhà Lý và lập ra nhà Trần.
Nhà Trần cũng theo gương nhà Lý không nhất thiết truyền ngôi vua cho
Hoàng Nam con cả của vua. Để tránh việc tranh giành ngôi vua, nhà Trần
đặt ra tục lập ngôi Thái Thượng Hoàng. Dầu thấu hiểu tục lệ nhà Trần như
vậy, Ngô Sĩ Liên cũng bàn là không nên lập vua mới khi vua cha hãy còn
sống, để một nước một lúc có hai vua.
Ngô Sĩ Liên chủ trương đàn bà góa không được tái giá để giữ tiết với
chồng cũ, theo đúng lệ tam tòng của Nho Giáo. Tục này phải được bắt đầu
từ trong hoàng tộc, để làm gương cho tứ dân. Chủ trương đó nhằm tránh
những vụ thoán ngôi vua như vụ Lê Hoàn lấy bà Dương Hậu lập ra nhà Tiền
Lê, vụ Trần Thủ Độ lấy vương Hậu Linh Từ lập ra nhà Trần. Đi xa hơn, Ngô
Sĩ Liên ca ngợi việc các vương hậu nước Chàm phải chịu thiêu sống để
giữ vẹn đức tam tòng.
Người đọc sử tự hỏi rằng, vốn là một nho giả chân chính, phải chăng
Ngô Sĩ Liên nhiệt liệt cổ động cho việc gái hóa phải chết theo chồng là
để duy trì chữ Trung của đạo nho theo câu tục trai trung một chúa, gái
trinh một chồng. Cũng trong dòng tư duy này, sử còn chép truyện năm
1285, khi quân nhà Trần phá quân Nguyên, chủ tướng quân Trung Quốc là
Toa Đô bị trúng tên chết. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp
vua Trần Nhân Tông, vua thấy người dũng kiệt hết lòng với chúa mới than
rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi cởi áo bào đắp vào thủ cấp
Toa Đô, sai làm lễ mai táng theo quân cách.
Với chủ trương trai trung một chúa, Ngô Sĩ Liên cực lưc bài bác
những mưu đồ thoán nghịch của Lê Hoan, Trần Thủ Độ và nhất là Hồ Qúy Ly,
cả ba cùng là những tặc thần lập mưu giết vua để cướp ngôi vua. Theo
Ngô Sĩ Liên, Lê Hoan đáng tội chết chém, Trần Thủ Độ không đáng so sánh
với loài chó lợn và Hồ Qúy Ly bi trời phạt khiến giặc Nam không giết nổi
thời giặc Bắc không tha.
Theo Yu Insun thời Ngô Sĩ Liên nặng lời chỉ trích Lê Hoàn, Trần Thủ
Độ và Hồ Quý Ly thí vua cướp ngôi báu, không chỉ riêng bởi Ngô Sĩ Liên
là một tân nho giả mà còn phản ánh nội tình triều nhà Lê, ngày đó, khi
vua Lê Nhân Tôn bị người anh là Nghi Dân 宜 民, trước kia đã được phong
làm Thái Tử, sau vì mẹ phải tội cho nên bị phế bỏ. Năm 1459 Nghi Dân
đồng mưu với Lê Đắc Ninh 黎 得 寧, Phạm Ban 范 般 v.v… nửa đêm trèo vào thành
giết vua Lê Nhân Tôn và hoàng thái hậu, tự xưng làm vua rồi sai sứ sang
Trung Quốc cầu phong.
Mối quan tâm của Ngô Sĩ Liên là sự an nguy của đất nước trước sự đe
dọa của kẻ thù phương Bắc, dẫu rằng nhà Minh sau khi bị đuổi ra khỏi bờ
cõi không còn là một mối đe dọa nặng nề như quân nhà Nguyên dưới đời
Trần.
Thế nên, theo Yu Insun, từ khi vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh sau
hai mươi năm đô hộ, mối lo chính của Ngô Sĩ Liên là sự bất ổn của tình
hình quốc nôi khơi ngòi cho việc xâm lăng của ngoại bang. Đó là lý do
khiến Ngô Sĩ Liên đặt bản văn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào trong
bộ sử Toàn Thư.
Bản Bình Ngô Đại Cáo xác quyết Đại Việt là một nước có văn hiến
riêng, bờ cõi phân chia rõ ràng, phong tục khác hẳn Trung Quốc. Khác với
Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên khẳng định là nước Đại Việt có một lịch sử dài
không thua lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ vua Thần Nông. Theo tục truyền
Kinh Dương Vương, vị vua đầu tiên của đất Nam Việt là anh khác mẹ của
Đế Nghi, vị vua đầu tiên của người phương Bắc. Thật thế, Đế Minh, cha
của Đế Nghi và Kinh Dương Vương là cháu ba đời vua Thần Nông, có ý lập
Kinh Dương Vương lên nối ngôi, nhưng Kinh Dương Vương từ chối nhường
ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, còn mình làm vua phương Nam.
Ngô Sĩ Liên lo lắng cho mối an nguy nước Đại Việt phản ánh trong lời
bàn của ông về những vụ xâm lăng của quân Mông Cổ từ phương Bắc, qua
những vụ xâm phạm bờ cõi miền Nam của quân Chiêm. Ngô Sĩ Liên ca tụng
thượng hoàng Trần Nhân Tông, không những có tài điều binh khiển tướng
đánh đuổi được quân Nguyên, mà còn triệu tập Hôi Nghị Diên Hồng, đoàn
kết toàn dân thành một khối quyết tâm bảo vệ đất nước. Ngược lại ông chê
trách triều nhà Trần bỏ ngỏ biên giới miền Nam mở đường cho quân Chiêm
Thành sang quấy phá Đại Việt. Ông chê trách Thượng Hoàn Dụ Tông quen
sống trong cảnh đất nước thịnh vương bình an mà trở thành quá phóng
túng, chỉ nghĩ tới chuyện mua vui. Ông cũng chê trách vua Trần Nghệ Tông
quá mải mê với văn học mà sao lãng việc binh đến độ để quân Chiêm Thành
vào cướp phá thành Thăng Long vào mùa thu năm 1371.
Nhân danh một nhà Tân Nho, Ngô Sĩ Liên bài bác ảnh hưởng Phật Giáo
trong hai triều nhà Lý và nhà Trần. Ông quan niệm việc vua Lý Thái Tổ
khi vừa đăng quang liền cho xây chùa tô tượng Phật khắp nơi trong nước
là một điều quá đáng, dầu ông không quên là vua Lý Thái Tổ là con nuôi
của nhà sư Lý Khánh Vân, và nhờ vậy mà thành nhân. Ngô Sĩ Liên ca tụng
vua Trần Nhân Tông là một vị minh quân từng chiến thắng quân Nguyên xâm
phạm đất Đại Việt, nhưng ông coi việc vua Trần Nhân Tôn, sau khi thoái
vị làm Thái Thượng Hoàng, trở thành đệ nhất tổ giòng Thiền Trúc Lâm, là
một hành động chứng tỏ vua Trần Nhân Tôn không giữ vẹn chữ Trung Dung
của đạo Nho.
Hơn nữa,vẫn nhân danh là một nho sĩ, Ngô Sĩ Liên còn phê bình việc
thay đổi niên hiệu của vua Lý Thái Tổ năm 1034. Năm ấy hai nhà sư Nghiêm
Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu, thi thể cháy kết thành thất bảo.
Vua xuống chiếu đem thất bảo đó giữ ở chùa Trường Thánh để thờ, nhân dịp
đó vua đổi niên hiệu là Thụy Thông; sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn(3):
Thuyết nhà Phật gọi là xá lị tức là khi tự thiêu mình, tinh khí tụ
lại kết thành một thứ lửa không cháy được, cho nên gọi là bảo. Tương
truyền là người nào học Phật thành thì xác hồn làm bảo như thế. Vì rằng
người sãi đoạn tuyệt tính dục thì tinh khí kết thành ra thứ ấy. Người
đời cho là không thường, thấy mà cho là lạ, có biết đâu là tinh khí
dương tụ lại mà thành thôi. Vua cũng mê hoặc mà đổi niên hiệu. Từ đấy về
sau những người hiếu danh, cạo đầu làm sãi, nhẫn nại chịu chết như loại
Trí Không này nhiều lắm.
Xuống tới đời Hoàng đế Lý Nhân Tôn, năm 1096, thái sư Lê Văn Thịnh
làm phản, Vua Lý Nhân Tôn tha tội chết, an trí tại Thao Giang. Nguyên
bấy giờ vua ngự thuyền xem đánh cá tại hồ Dâm Đàm. Chợt có mây mù, trong
đám mù có tiếng thuyền bơi tới, vua lấy giáo ném. Bỗng chốc mây mù tan,
trong thuyền ngự có con hổ. Có người than: Nguy lắm rồi! Có người đánh
cá tên Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì hổ biến ra thành thái sư
Lê Văn Thịnh. Lê Văn Thịnh vốn có tà pháp làm ra vậy để tính truyện
cướp ngôi. Vua thưởng cho Mục Thuận, và cắt đất cho lập ấp. Ngô Sĩ Liên
có lời bàn về truyện này(4):
Người làm tôi định cướp ngôi giết vua mà được miễn tội chết! Thế là
sai trong việc hình, lỗi ở vua tin Phật Giáo. Mùa thu tháng 7 ngày 25, Ỷ
Lan hoàng thái hậu băng hà, hỏa táng; dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân
Hoàng Thái Hậu, lại bắt người thị nữ chôn theo.
Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc này(5):
Hoả táng là theo Phật Giáo, chôn theo là tục nhà Tần. Nhân Tôn Hoàng
Đế làm cả hai việc ấy, hoặc giả theo lời của Thái Hậu chăng?
Theo Yu Insun, lời bàn của Ngô Sĩ Liên, đặt câu hỏi về lời di chú
của Ỷ Lan hoàng thái hậu, là bởi Ngô Sĩ Liên có ý bài bác vua Lý Nhân
Tông vì chính nhà vua, theo tục lệ Phật Giáo, ban lệnh thi hành việc hỏa
táng và việc chôn theo thị nữ của hoàng thái hậu.
So Sánh hai Sử Gia
Yu Insun cho rằng quan điểm sử học của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên là
sản phẩm của thời đại của mỗi người. Với Lê Văn Hưu, sử kiện đáng chú ý
nhất là những thành tích kháng Nguyên giữ nước của triều nhà Trần. Với
Ngô Sĩ Liên, một sử thần của triều nhà Lê, Khổng Học lúc đó đã trở thành
một nền quốc học, thế nên giáo lý cũng như tập tục Khổng Giáo là những
mối quan tâm hàng đầu. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên đã từng sống qua hai chục
năm dưới sự đô hộ của quân Minh, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của nền
an ninh quốc nội trong việc ngăn chặn người phương Bắc xâm lấn đất nước
vả duy trì nền tự chủ của nước Đại Việt.
Khác biệt giữa quan điểm sử học của hai sử thần thấy rõ qua sự khác
biệt giữa những lời bàn trên cùng một sử kiện. Lời bàn của Lê Văn Hưu
chú trọng tới nền an nguy của đất nước và sự bình đẳng giữa nước Nam với
nước Bắc.
Ngô Sĩ Liên chỉ bàn về hai vấn đề này trong bốn sự kiện. Đằng khác,
Ngô Sĩ Liên dành 11 lời bàn về giáo lý Khổng Học, Lê Văn Hưu chỉ nói tới
vấn đề liên quan tới Khổng Hoc trong 5 lời bàn. Sự khác biệt giữa hai
sử thần còn rõ rệt hơn nữa qua những lời bàn cùng về những sử kiện dưới
triều vua Ngô Quyền và vua Đinh Bộ Lĩnh.
Lê Văn Hưu tin chắc rằng Ngô Quyền không hoàn toàn tạo dựng được nền
tự chủ cho đất nước như Triệu Đà đã đặt được trước khi quân của Hán Vũ
Đế sang xâm lấn, bởi chiến thắng của Ngô Quyền đã khiến nhà Hán phải bỏ
mộng xâm lược, nhưng ông tiếc cho Ngô Quyền không nhân dịp đó xưng đế
như Triệu Đà. Ngược lại Lê Văn Hưu ca tụng Ngô Quyền ngoài tài thống
lĩnh quân đội còn giỏi tổ chức việc nội trị, tạo nên nề nếp cho đời sống
nhân dân. Ông kết luận rằng với một công nghiệp như vậy, Ngô Quyền xứng
đáng là một Hoàng Đế của nước Nam Việt. Lê Văn Hưu chủ xướng là Đinh Bộ
Linh đã giành được nền tự chủ hoàn toàn cho đất nước, không kém gì
Triệu Đà đời trước. Đinh Bộ Lĩnh đã tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu mới,
sửa sang giềng mối triều chính. Ngược lại, Ngô Sĩ Liên coi nhẹ công
nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, vì ông chủ trương là Ngô Quyền đã giành được
hoàn toàn nền tự chủ cho Nam Việt. Ngược lai ông chỉ trích Đinh Bộ Lĩnh
và con cả là hoàng tử Đinh Liễn là không hành xử theo đúng tập tục
Khổng Học. Đinh Bộ Lĩnh đã vượt qua truyền thống truyền ngôi của các
triều đại Trung Quốc đặt trên nền tảng Khổng Học: nhà vua đã bỏ con
trưởng Đinh Liễn và lập con út là Hạng Lang lên nối ngôi. Đinh Liễn đã
tùng theo cha chinh chiến nhiều năm trong việc dẹp loạn 12 xứ quân, nên
tức giận lập mưu giết Hạng Lang, nên cũng không giữ tròn đạo làm tôi
theo Khổng Học, đồng thời gây ra mối loạn trong nhà để người phương Bắc
có cơ hội nhòm ngó bờ cõi. Người đọc sử có thể hiểu rằng lời Ngô Sĩ Liên
chỉ trích cha con Đinh Bộ Lĩnh phản ảnh ý ông muốn ám chỉ trích việc
tranh giành ngôi báu trong triều nhà Lê lúc bấy giờ.
Ảnh hưởng Khổng Giáo từ triều nhà Lê không những chỉ mỗi ngày một
lớn mạnh trong việc triều chính mà còn thấm nhập từ từ vào trong mọi
hoạt động trong dân gian, truyền qua đời nhà Nguyễn, cho tới khi người
Pháp bỏ thi Hương hồi đầu thế kỷ XX mới suy giảm. Nhiều nhà sử học ngày
nay cho rằng điểm triều đình các nhà Đinh, Lê, Lý và Trần tôn trọng Phật
Giáo hơn Khổng Giáo là một truyền thống của người Việt Nam khác với
truyền thống của người Trung Quốc lấy Khổng Giáo làm quốc giáo. Chính
nhờ điểm khác biệt đó mà dân Việt Nam đã không bị Trung Quốc đồng hóa.
(1) Wolter, “What Else May Ngô Sĩ Liên Mean” in “Sojourners and
Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese”, University of
Hawai Press 2001. Edited by Reid Anthony.
(2) Đoàn Trung Còn, Tứ Thơ Mạnh Tử, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.12.
(3) Ngô Sĩ Liên, Toàn Thư, Tập 1, bản dịch của Cao Huy Gịu, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967, tr. 210.
(4) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 242.
(5) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 248.