Đặng Hoàng Giang
Ảnh minh họa. Nguồn: Dân Luận
1. Kể từ tháng 5/2014, khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan
hải Dương 981 trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt nam,
xâm phạm vùng biển nước ta, qua đó bộc lộ tham vọng kiểm soát Việt Nam
một cách toàn diện và lâu dài, đông đảo người Việt ở trong/ngoài nước đã
nhận thấy cái bóng khổng lồ của người láng giềng phương Bắc đang lởn
vởn trên đời sống dân tộc, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia. Thoát ra khỏi cái bóng này trở thành một nhu cầu bức bách, sống
còn của toàn thể cộng đồng. Trong bối cảnh ấy, vấn đề thoát Trung hay thoát Hoa được đặt ra và nhanh chóng trở thành một chủ đề thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm rộng rãi của nhiều thành phần xã hội.
Đến nay, trong cộng đồng trí thức Việt Nam, đã có nhiều ý kiến trả lời cho câu hỏi: thoát Trung là gì? [hay là thoát cái gì?]
Theo nhận thức của đa số, thoát Trung là một nổ lực chuyển hướng nhằm
ra khỏi quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc, hướng sang một quỹ đạo mới hầu
phát triển Việt Nam theo hướng dân chủ, hiện đại. Sở dĩ phải khẩn
trương thực hiện cuộc chuyển hướng này là vì: chừng nào còn nằm trong
vòng ảnh hưởng của Trung Quốc (về chính trị, kinh tế, văn hóa… ), chừng
đó Việt Nam còn mang thân phận nhược tiểu lệ thuộc, sớm muộn sẽ trở
thành đối tượng lí tưởng cho tham vọng bành trướng của quốc gia láng
giềng. Tuy nhiên, phía sau lớp vỏ hợp lí bề ngoài, cách nhìn này lại
chưa cụ thể hóa được bản chất của vấn đề. Thoát Trung thì đã
đành rồi nhưng cụ thể là thoát cái gì? Hơn nữa, người ta có quyền nghi
ngờ sức thuyết phục của nó vì nếu cho rằng ảnh hưởng của Trung Quốc là
thậm xấu thì tại sao một số quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan lại vươn lên thành cường quốc mặc dù họ đã từng chịu ảnh hưởng sâu
đậm của văn minh Trung Hoa?
Rõ ràng, thoát Trung là một đòi hỏi chính đáng và tất yếu nhưng
không thể thoát Trung một cách chung chung, mơ hồ. Để tìm ra một lối đi
khả dĩ, vấn đề thoát Trung cần được nhận thức lại. Có lẽ, chúng ta nên
dựa vào một khái niệm có khả năng định hướng nhận thức, phân tích và mở
rộng vấn đề. Với cách nhìn như thế, bài viết này được triển khai dựa
trên một khái niệm: chất Tàu. Tác giả cho rằng, thực chất của
thoát Trung là đoạn tuyệt với cái gọi là chất Tàu nhằm chuyển hóa nội
lực dân tộc sang một trạng thái mới, phẩm chất mới.
2. Khái niệm chất Tàu – kitaitshina (tiếng Nga) được triết gia lỗi lạc người Nga Vladimir Soloviev sử dụng trong khảo luận xuất sắc của ông: Trung Quốc và châu Âu[1]. Trong khảo luận đó, chất Tàu được V. Soloviev định nghĩa là cái nguyên tắc lịch sử đã và đang làm cơ sở cho cái thể chế hạn hẹp và ngoại biệt của đời sống Trung Hoa, là cơ sở đạo đức-xã hội trường tồn vừa tạo ra sức mạnh vừa tạo ra sự hạn chế của dân tộc ấy[2]. Kết hợp định nghĩa này với toàn bộ nội dung khảo luận, có thể hiểu rằng, chất Tàu
là các đặc tính đã góp phần làm nên đời sống Trung Hoa cổ truyền, một
kiểu đời sống hết sức đặc trưng, ngoại biệt. Dĩ nhiên, là tập hợp của
nhiều đặc tính văn hóa, chất Tàu không dễ dàng mất đi. Trong hơn 50 năm
qua, dưới một hình thức đã biến thái ít nhiều, chất Tàu tiếp
tục trỗi dậy và chi phối đường lối phát triển của nước Trung Hoa hiện
đại. Vậy thì, các đặc tính nổi bật đã làm nên chất Tàu là gì?
- Sùng bái mô hình chuyên chế và bạo lực: Trong lịch sử
chính trị Trung Hoa, qua rất nhiều biến động và xáo trộn, mô hình nhà
nước tồn tại xuyên suốt là mô hình chuyên chế. Đó là kiểu nhà nước mà
toàn bộ quyền lực tập trung vào một nhân vật đã được thần thánh hóa:
Hoàng đế – Thiên tử – con Trời. Để biện minh cho tính chính danh của
mình, nhà nước quân chủ chuyên chế dựa vào Nho giáo. Từ đời Hán trở về
sau, Nho giáo được nâng lên hàng quốc giáo, thống trị đời sống tư tưởng
Trung Hoa, đẩy các trường phái triết học, tư tưởng, tôn giáo khác xuống
hàng thứ yếu (Phật giáo, Lão giáo,… ). Trên thực tế, các nhà nước quân
chủ chuyên chế đã tìm cách kết hợp Nho gia lẫn Pháp gia trong đường lối
trị quốc. Nếu Nho gia buộc chặt con người trong vô số nguyên tắc của Lễ,
biến con người thành con người chức năng, con người nghĩa vụ; thì Pháp
gia lại đề cao bạo lực, xem bạo lực như một phương tiện hữu hiệu để tập
trung, thống nhất quyền lực trong nước và mở rộng quyền lực ra bên ngoài
bằng chiến tranh xâm lược.
- Sùng bái quá khứ: Dân tộc Trung Hoa có một cách nhìn quá
khứ rất đặc biệt. Thừa nhận ở bên trên mình quyền lực của chỉ một quá
khứ, họ chối từ tư duy sáng tạo, chối từ sáng kiến chủ động, đè nén
trong mình mọi ước mơ về một tương lai khác, tốt đẹp hơn. Giữ nguyên vẹn bất biến cái thể chế đời sống mà cha ông để lại và chuyển giao
nó cho các thế hệ mai sau, không thêm bớt một tí gì – đó là thực chất
của minh triết Trung Hoa, cái minh triết rõ ràng bảo thủ và sùng cổ, có
thể nói nệ cổ[3].
Nhờ vậy, chế độ chuyên chế Trung Hoa trường thọ hơn bất cứ nhà nước nào
trên thế giới và gần như miễn nhiễm với các dự án cải cách, đổi mới.
- Coi khinh văn hóa: Xu hướng coi khinh văn hóa có nguồn
gốc sâu xa trong quan điểm của Pháp gia. Theo Pháp gia, con người không
có xu hướng vươn đến cái thiện như lời Khổng Mạnh; nó cũng không phải là
vị ngã chỉ lo giữ gìn sinh mệnh và lạc thú của thân mình từ đó mà có
thái độ xa lánh đi đến phi chính trị, phi xã hội như Đạo gia. Ngược lại,
bản tính của con người là thói vị kỷ, là xu hướng đòi thoả mãn những
bản năng tầm thường trong tình trạng sống còn dã man, chưa có đòi hỏi
văn hoá nhưng lại sợ uy vua, phép nước[4].
Pháp gia coi con người như súc vật, như công cụ và tìm cách biến con
người thành súc vật, thành công cụ nhằm phục vụ cho lợi ích của nhà
nước. Vì giá trị con người bị hạ rẻ nên văn hóa cũng được quy giản như
một phương tiện của chính trị. Văn hóa không có chức năng nào hơn là
phản ánh và phục vụ chính trị vô điều kiện. Trí thức – lực lượng tinh
hoa của văn hóa, chỉ đơn giản là người có học vấn, đi thi, làm quan,
phụng sự hoàng đế. Vậy nên, trong lịch sử tồn tại của nó, các nhà nước
chuyên chế Trung Hoa đều nhất quán thực hiện chính sách ngu dân, mị dân.
Điều này đã kích thích con người suy nghĩ và hành động theo bản năng
thuần túy, biểu hiện thành các dị tật trong đạo đức xã hội. Cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX, nhiều trí thức Trung Hoa cấp tiến đã phê phán gay
gắt các căn bệnh ích kỷ, tàn bạo, dối trá, hình thức trong tính cách
Trung Hoa. Để đảm bảo tính khách quan, chúng tôi xin dẫn lại nhận xét
của Vladimir Soloviev – một người quan sát từ bên ngoài. Theo triết gia
Nga, trong nền tảng đạo đức của người Hoa, «chúng ta không tìm thấy một
lời nào lên án sự giả dối và sự nhẫn tâm. Tinh thần đề
cao lễ tiết một chiều luyện cho con người thói quen lấy vẻ bề ngoài
thay thế thực chất, thậm chí còn tạo điều kiện cho tính đạo đức giả, tính dối trá phát
triển. Còn nếu nói về sự nhẫn tâm thì không có một chỉ huấn có tính
nguyên tắc nào chống lại nó trong đạo lý Trung Hoa (Khổng giáo), đạo lý
ấy chỉ thừa nhận những nghĩa vụ xác định đối với loại người này hay loại
người kia, chứ tuyệt đối không phải đối với con người nói chung»[5].
Chất Tàulà sản phẩm tự nhiên của môi trường chính trị –
kinh tế – xã hội Trung Hoa cổ truyền. Ở đó, đặc điểm bao trùm là sự tồn
tại dai dẳng của nhà nước quân chủ chuyên chế. Dựa trên một hệ tư tưởng
độc đoán, mị dân và bạo lực, nhà nước chuyên chế đã phủ bóng lên toàn bộ
đời sống Trung Hoa cổ truyền và định hình nên chất Tàu hết sức đặc trưng. Chất Tàu
vừa tạo ra một vài ưu thế, vừa cản trở nghiêm trọng sự phát triển của
dân tộc Trung Hoa. Một mặt, nó tạo cơ sở cho phép chế độ chuyên chế
Trung Hoa trường tồn; mặt khác, nó để lại những khuyết tật nặng nề cho
chính dân tộc này: không thể phát triển đúng sức do bị kìm hãm lâu dài
trong giáo điều, thủ cựu, bạo lực và chia rẽ. Bởi vậy, Vladimir Soloviev
hoàn toàn có cơ sở khi cho rằng: «văn hoá Trung Hoa, với tất cả tính
bền vững và sung mãn vật chất của nó, lại nghèo nàn về tinh thần và ít
bổ ích cho nhân loại»[6].
3. Từ đầu công nguyên, các nhà nước chuyên chế Trung Quốc đã tiến
hành thôn tính lãnh thổ, thực hiện đồng hóa văn hóa hòng biến nước ta
thành thuộc địa vĩnh viễn. Tuy nhiên, với ý thức dân tộc mạnh mẽ, suốt
1000 năm Bắc thuộc, người Việt liên tục nổi dậy và đến thế kỉ X, đã khôi
phục được quyền tự chủ. Bấy giờ, một vấn đề cơ bản được đặt ra đối với
các nhà nước Việt Nam là lựa chọn mô hình phát triển nào để bảo vệ và
duy trì nền độc lập non trẻ vừa giành được. Cho đến trước thế kỉ XV,
trong hào quang của kỉ nguyên Lí – Trần, đặc biệt trong thời Trần, người
Việt đã thành công với chủ trương tiếp nhận hạn chế các giá trị Trung
Hoa, đồng thời đặt trọng tâm phát triển trên các giá trị căn bản của
Phật giáo và truyền thống dân tộc: khoan dung, vị tha, cởi mở, hòa hiếu.
Tuy nhiên, từ thế kỉ XV trở về sau, xu hướng thân Hoa (sinophile) ngày càng chiếm ưu thế và đạt đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497):
- Bộ máy quản lí nhà nước được tổ chức theo mô hình chuyên chế Trung Hoa;
- Nho giáo (Tống nho) trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước;
- Chế độ giáo dục và thi cử Nho giáo được áp dụng và mở rộng trên phạm vi toàn quốc;
- Nền kinh tế lấy nông nghiệp làm căn bản, thủ công nghiệp tồn tại
nhỏ lẻ, thương nghiệp không đủ điều kiện phát triển thành kinh tế hàng
hóa;
- Nho sĩ và nông dân là hai lực lượng xã hội trụ cột, trong đó, nếu
giấc mơ của nho sĩ là thi đỗ, làm quan thì giấc mơ của người nông dân là
trời yên biển lặng để vun vén cho niềm hạnh phúc bé nhỏ, mong manh của
họ.
Các điều kiện nêu trên đã trực tiếp tạo nên một môi trường lí tưởng cho chất Tàu
hình thành, nảy nở. Sang thế kỷ XIX, trong bối cảnh quốc tế và trong
nước đã hoàn toàn thay đổi, triều Nguyễn không khác triều Lê là bao khi
tiếp tục đi trên con đường mòn của triều đại trước, chìm đắm trong giấc
mơ Tống nho và thờ ơ với mọi chủ trương canh tân. Từ cuối thế kỉ XIX trở
đi, mặc dù đã xuất hiện một số điều kiện khách quan để thay đổi phẩm
tính người Việt theo hướng hình thành tư cách công dân hiện đại, nhưng
quá trình này đã bị gián đoạn và chấm dứt giữa chừng.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, có thể nói, chất Tàu đã đưa đến những hậu quả nặng nề đối với sự phát triển của dân tộc:
- Xu hướng chuyên chế và độc tôn tư tưởng đã làm nghèo nền văn hóa
dân tộc do tính đa dạng, đa nguyên của đời sống văn hóa ngày càng bị bào
mòn, xâm phạm. Thiếu một nội lực cần thiết, nền văn hóa bị mất sức đề
kháng, mất khả năng độc lập để hình thành nên một chủ thuyết phát triển
cho riêng mình. Bởi vậy, từ sau thế kỷ XV, người Việt luôn bị động chạy
theo các học thuyết bên ngoài. Phan Chu Trinh gọi hiện tượng này là tâm
lí vọng ngoại và cho rằng, muốn dân tộc trở nên độc lập, phú
cường, trước hết phải thoát khỏi tâm lí vọng ngoại bằng cách đào tạo con
người có nhân cách tự chủ để xây dựng một nền văn hóa tự chủ, một xã
hội tự chủ.
- Xu hướng chuộng bạo lực đã biến bạo lực thành phương tiện giải
quyết các vấn đề chính trị – xã hội, kể cả văn hóa. Bạo lực xuất hiện
tùy tiện, tràn lan làm đảo lộn sinh hoạt xã hội, tàn phá, hủy hoại vốn
văn hóa dân tộc. Lịch sử Việt Nam ghi nhận một thực tế quen thuộc: sự
thay đổi thể chế nhà nước/triều đại luôn diễn ra song hành với quá trình
xáo trộn, đứt gãy cơ tầng văn hóa dân tộc. Đó là chưa nói rằng, bạo lực
còn gây nên tình trạng chia cắt đất nước, làm suy yếu giống nòi.
- Tính vị kỉ, bè phái, ngôi thứ đã tạo nên một cộng đồng rời rạc,
manh mún, rất dễ chia cắt và phân hóa. Hiện nay, đặc điểm bao trùm trong
đời sống xã hội là tình trạng thiếu liên kết, thiếu niềm tin, thiếu
khoan dung giữa các cá nhân, các thế hệ, các nhóm và các cộng đồng.
- Bệnh khoa trương, hình thức ru ngủ người Việt trong ảo tưởng về
năng lực của chính mình. Dần dà, họ mất liên hệ với thực tế bên ngoài,
không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám điều chỉnh để cải thiện hiện
trạng dù hiện trạng ấy ngày càng trở nên bất lợi cho họ.
Vĩ thanh
Từ chỗ là sản phẩm đặc trưng của xã hội Trung Hoa, khi các điều kiện
cần và đủ xuất hiện, chất Tàu đã hình thành, nảy nở trong xã hội của
người Việt, trở thành một bộ phận của tính cách dân tộc, chi phối sự
phát triển của dân tộc trong cả quá khứ lẫn hiện tại. Với đặc trưng là
xu hướng chuyên chế, bạo lực, coi khinh văn hóa, vị kỷ, bè phái, giả
tạo, hình thức, não trạng phát triển ấy chỉ mang đến đặc quyền
đặc lợi cho một nhóm thiểu số nắm trong tay quyền lực, nhưng hoàn toàn
bất lợi cho sự phát triển của đất nước và nhân dân trên con đường đi tới
dân chủ, văn minh, hiện đại. Không nên quy nguyên nhân lạc hậu, trì trệ
của đất nước cho tác động của văn hóa Trung Quốc vì chất Tàu là do
chúng ta tự nguyện chuốc lấy. Bởi vậy, trong bản chất, thoát Trung
không phải là một chuyển động hướng ngoại mà là một cuộc phản tỉnh của
toàn thể dân tộc nhằm khắc phục những nhược điểm từ bên trong, phát
triển nội lực, chấn hưng đất nước.