Sau một cơn bệnh kéo dài, Nelson Mandela, cựu Tổng thống Nam Phi, đã qua đời ngày 5 tháng 12, 2013.
Cái chết của ông, một người 95 tuổi, không làm ai ngạc nhiên. Nhưng người ta vẫn xúc động.
Có thể nói, trong các chính khách thuộc thế giới thứ ba, không có ai
bị ở tù lâu như Nelson Mandela, không ai được yêu mến và kính trọng như
Nelson Mandela: Ông được xem như một biểu tượng của trí tuệ, của tinh
thần dân chủ, lòng nhân đạo và của sự khoan dung không chỉ ở nước ông
hay ở châu Phi mà ở khắp thế giới. Ông trở thành nguồn cảm hứng lớn lao
cho rất nhiều người, từ giới làm chính trị đến giới nghệ sĩ khắp nơi.
Với mọi người, được gặp Mandela, ngay cả khi ông đã về hưu, không còn
nắm giữ chút quyền lực nào cả, cũng là một niềm vui và là một vinh dự
nhớ đời.
Khi được hỏi ai là người ông ngưỡng mộ nhất, Tổng thống Barack Obama
không hề ngần ngại trả lời ngay: Nelson Mandela! Từ lúc còn trẻ, ông đã
muốn noi theo gương của Mandela. Năm 2005, lúc mới bước chân vào Thượng
viện, một ngày, đang lái xe đi họp, Obama nhận được điện thoại, có người
báo tin là Mandela muốn gặp ở khách sạn Four Season, Georgetown, ông
vội vã quay xe lại ngay. Cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài có năm phút. Bức hình
chụp chung lần ấy được Obama đặt ngay trên bàn làm việc ở phòng Bầu Dục
khi ông lên làm Tổng thống. Năm 2009, trong bài diễn văn nhận giải Nobel
Hòa Bình, Obama thú nhận là so với những đóng góp của những con người
vĩ đại như Albert Schweitzer, Martin Luther King, George Marshall và
Nelson Mandela, thành tích của ông còn rất ư khiêm tốn.
Cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Chỉ riêng sức chịu đựng và sự kiên
nhẫn của Mandela đã vượt ra ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sinh năm
1918, tốt nghiệp luật tại đại học Witwatersrand, tham gia các phong
trào chống thực dân một cách bất bạo động từ thời còn trẻ, Mandela bị
bắt và bị giam trong nhà tù tổng cộng đến 27 năm. Trong lúc ông ở tù, vợ
ông, bà Winnie Mandela cũng bị bắt ở ở tù nhiều lần, trong nhiều năm,
do các hoạt động chống lại chế độ thực dân và kỳ thị chủng tộc tại Nam
Phi. Con cái của ông không có ai chăm sóc. Người con trai cả với người
vợ đầu, Thembi, bị chết vì tai nạn xe cộ năm 1969, ông cũng không thể dự
được đám tang. Ngoài ra, ông cũng biết được vợ của ông, Winnie, cũng
không hoàn toàn chung thủy với ông.
Tất cả những bi kịch ấy không làm nao núng nghị lực của ông. Ngay
trong nhà tù, với những điều kiện quản thúc và áp chế vô cùng khắc
nghiệt, Mandela vẫn tiếp tục học, hết học luật (hàm thụ từ một trường
đại học ở London) đến học về Hồi giáo và tiếng Afrikaans, một phương ngữ
có khoảng bảy triệu người nói ở Nam Phi.
Và ông tiếp tục tranh đấu.
Những năm đầu, việc tranh đấu bị hạn chế do Mandela thường xuyên bị
biệt giam và không được liên lạc với bên ngoài. Nhưng từ năm 1975 trở
đi, tự do hơn, ông được tiếp một số bạn bè, đồng chí cũng như khách khứa
quốc tế đến thăm trong nhà tù, đặc biệt, ông có thể gửi thư từ ra ngoài
khá đều đặn – mỗi tháng ba bức (dù tất cả đều bị kiểm duyệt, dĩ nhiên).
Ông gửi thư cho vợ, cho con, cho bạn bè. Ông gửi thư cho các đồng chí
trong đảng của ông. Ông gửi thư cho các chính khách quốc nội cũng như
quốc tế để kêu gọi sự ủng hộ. Ông gửi thư cho cả những người có những
quan điểm chính trị khác hẳn với ông để tranh thủ sự đồng tình hoặc ít
nhất để nuôi dưỡng quan hệ hữu nghị trong chừng mực có thể.
Qua những bức thư ấy, ông không những củng cố lực lượng mà còn mở
rộng những liên minh chính trị cần thiết cho cuộc đấu tranh cho độc lập,
dân chủ và bình đẳng ở Nam Phi. Những bức thư thường xuyên ấy khiến
Mandela, dù bị ở tù, thậm chí, ở tù biệt giam, vẫn luôn luôn hiện diện
trong sinh hoạt chính trị ở Nam Phi cũng như trên thế giới. Các cơ quan
truyền thông khắp nơi hầu như không bao giờ quên ông. Dư luận không
ngừng bàn tán về ông. Các tổ chức nhân quyền không ngừng lên tiếng đòi
hỏi chính phủ thiểu số người da trắng ở Nam Phi trả tự do cho ông. Ông
trở thành đại diện duy nhất của người Nam Phi mà chính quyền da trắng
cần phải thương lượng nếu muốn cải thiện tình hình chính trị trong nước,
danh tiếng trên thế giới và quan hệ quốc tế hầu tránh tình trạng bị tẩy
chay và cô lập do các chính sách kỳ thị chủng tộc của họ.
Điều người ta thán phục nhất, là qua những bức thư ấy, người ta thấy
rất rõ, mặc dù bị cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài trong một thời
gian rất dài, kiến thức về chính trị của Mandela không ngừng được cập
nhật, tư duy chiến lược của ông vẫn vô cùng sắc sảo, và đặc biệt, tấm
lòng của ông vẫn đầy khoan dung. Bị kỳ thị và đày đọa đến tận cùng,
Mandela vẫn không chút oán thù. Ông vẫn muốn giải quyết những mâu thuẫn
và xung đột trầm trọng ở Nam Phi qua con đường hòa giải. Chính vì vậy
không phải chỉ những người da đen ủng hộ ông mà cả những người da trắng
cấp tiến cũng ngưỡng mộ ông. Người ta xem ông không những chỉ là một
chính khách lỗi lạc mà còn là một biểu tượng của đạo đức; và với tư cách
một biểu tượng đạo đức, ông không những giải phóng dân chúng người da
đen ở nước ông mà còn giải phóng bất cứ người cùng khổ và bị áp bức nào
khác.
Cuối cùng, dưới áp lực càng lúc càng nặng nề của quốc tế và tình hình
rối ren không thể giải quyết được trong nước, chính phủ người thiểu số
người da trắng ở Nam Phi quyết định trả tự do cho Mandela vào ngày 2
tháng 2, 1990. Dân chúng Nam Phi đổ nhau reo mừng chào đón người anh
hùng của họ sau 27 năm bị giam cầm. Bài diễn văn đầu tiên Mandela đọc
trước dân chúng là kêu gọi mọi người tranh đấu một cách hòa bình và
trong tinh thần hoà giải.
Được tự do hoạt động, uy tín và uy thế của Mandela càng ngày càng lớn
mạnh. Ông được nguyên thủ của nhiều quốc gia, kể cả cường quốc, trên
thế giới, từ Đức giáo hoàng John Paul II đến Tổng thống Mỹ, George H.W.
Bush, Tổng thống Pháp, Francois Mitterand, Thủ tướng Anh Margaret
Thatcher… tiếp đón và ủng hộ. Năm 1993, ông được trao giải Nobel hòa
bình.
Trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên ở Nam Phi vào năm 1994, Mandela trở
thành tổng thống người da đen đầu tiên của nước này. Một trong những mục
tiêu lớn nhất Mandela đặt ra trong nhiệm kỳ tổng thống của mình là tạo
nên sự hòa giải giữa người da đen và da trắng, giữa tầng lớp giàu có và
đại đa số dân chúng nghèo khổ trong nước. Chính sách của Mandela khác
hẳn nhiều nước châu Phi khác, sau khi độc lập, đâm ra kỳ thị ngược lại
với người da trắng, cuối cùng, đẩy đất nước của họ vào cảnh lạc hậu,
khốn quẫn, loạn lạc và độc tài (như Zimbabwe, Uganda và Rwanda). Với
chính sách hoà giải của Mandela, kinh kế của Nam Phi vẫn phát triển tốt
đẹp trong khi tình hình chính trị vẫn ổn định. Tuy nhiên, ông đối diện
với không ít chỉ trích và chống đối từ các tổ chức chính trị của người
da đen cực đoan, trong đó có cả tổ chức của vợ ông, bà Winnie, cuối
cùng, hai người phải ly dị.
Năm 1999, Mandela, khi hết nhiệm kỳ thứ nhất, từ giã chính trị. Ông
sống với người vợ thứ ba, Graca Machel, cưới năm 1998, lúc ông 80 tuổi.
Nhưng ông vẫn tiếp tục bận bịu với vô số công việc, hết gặp gỡ người này
lại hội họp với người khác, hầu như ai cũng muốn gặp ông. Ông lại hay
đi diễn thuyết và tổ chức nhiều hội từ thiện, nhiều chương trình học
bổng nổi tiếng. Đến năm 2004, đã già và yếu, lại thêm nhiều bệnh, ông
mới thực sự về hưu hẳn: Ông gọi là “về hưu từ hưu trí” (retiring from
retirement), và dặn dò: “Đừng gọi tôi, tôi sẽ gọi bạn” (khi cần). Nhưng
thật ra, ông cũng không rút lui khỏi sân khấu chính trị thế giới hoàn
toàn. Thỉnh thoảng ông vẫn lên tiếng, và tiếng nói của ông vẫn gây rất
nhiều ảnh hưởng trên dư luận, như, năm 2007, ông kêu gọi Robert Mugabe,
tổng thống Zimbabwe nên từ chức. Sinh nhật thứ 90 của ông năm 2008 được
tổ chức long trọng trong cả nước.
Ở Nam Phi, người ta xem Mandela như một vị cha già của dân tộc. Nhưng
vị cha già này khác hẳn một đấng cha già khác ở đâu đó vốn chỉ giỏi gây
ra chiến tranh và áp bức, Mandela, ngược lại, mang lại hòa bình, tự do,
bình đẳng và thịnh vượng cho đất nước ông. Nhiều người ví ông với Tổng
thống Abraham Lincoln, người đã có công gàn gắn sự chia rẽ của nước Mỹ
sau một cuộc nội chiến đẫm máu và giải phóng nô lệ. Nhưng có lẽ, về một
phương diện nào đó, công việc của Mandela còn khó khăn ở Lincoln: khác
với Lincoln, Mandela từng bị kẻ thù đày ải cả hơn nửa thế kỷ. Cái gọi là
sự tha thứ của Mandela, do đó, cao cả hơn hẳn những người có đời sống
bình thường khác.
Có thể nói, ở Mandela có nhiều sự vĩ đại, nhưng sự vĩ đại lớn nhất
khiến mọi người đều ngưỡng mộ ông, thậm chí, tôn thờ ông, chính là sự
tha thứ của ông đối với những kẻ đã hành hạ ông và dân tộc của ông.
Nhiều người tưởng sự tha thứ làm cho người ta yếu đi. Mandela chứng
minh ngược lại: Tha thứ làm cho người ta mạnh. Một số nhà bình luận
chính trị cho quyền lực của Mandela, trước hết, là quyền lực của sự tha
thứ (power of forgiveness).
Và một số nhà tâm lý học cho đó là bài học quan trọng nhất mà Mandela để lại cho nhân loại.
Blog Nguyễn Hưng Quốc (VOA)