Nguyễn Gia Kiển
“… Chế độ toàn trị sẽ cáo chung và sắp cáo chung. Việt Nam sẽ là một nước dân chủ đa nguyên với quốc hiệu Cộng Hòa Việt Nam. Không thể khác…”
Nhiều nguồn tin cho thấy là đang có dự định bỏ tên nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để trở lại với quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Ủy Ban Sửa Đổi Hiến Pháp cũng đã ghi nhận đề nghị này như một trong
những vấn đề để biểu quyết với nhận xét thuận lợi. Nếu đúng như thế thì
chỉ là thay thế một sai lầm bằng một sai lầm lớn hơn.
Bỏ quốc hiệu CHXHCNVN là việc phải làm bởi vì nó loại trừ những người
không tán thành chủ nghĩa xã hội, nghĩa là gần như tất cả mọi người
Việt Nam hiện nay. Nó là một thách đố xấc xược đối với dân tộc Việt Nam.
Hơn nữa chủ nghĩa xã hội, hay chủ nghĩa Mác – Lênin, đã bị thế giới vất
bỏ như một chủ nghĩa tội ác. Trên thế giới hiện nay Việt Nam là nước
duy nhất còn tự xưng là “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” (1).
Tuy vậy, trở lại với quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một chọn lựa khó tưởng tượng.
Cụm từ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” trước hết là một sai phạm về ngữ
pháp ở thời điểm 1945 khi ảnh hưởng của tiếng Trung Quốc trên tiếng Việt
còn quá nặng. Ngày nay cách viết tiếng Việt như vậy là sai, cũng sai
như nếu viết “Đức Dân Chủ Cộng Hòa” thay vì Cộng Hòa Dân Chủ Đức hay
“Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Hòa” thay vì Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, điều mà chính Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã nhận ra từ lâu
rồi. Cụm từ sai ngữ pháp này là do ông Hồ Chí Minh ở nước ngoài quá lâu
nên không còn nắm vững tiếng Việt, cũng như như hai tiếng “đả đảo”, có
nghĩa là “đánh đổ”, chưa từng có trong ngôn ngữ Việt Nam mà ông du nhập
từ Trung Quốc cùng một lúc. Duy trì một sai lầm ngữ pháp ngay trong quốc
hiệu không khác quệt một vết nhọ trên mặt.
Hơn nữa những thuật ngữ “dân chủ cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ”, “cộng
hòa nhân dân” cũng có nghĩa chính trị rõ rệt của chúng. Đó là những
thuật ngữ đồng nghĩa được Liên Xô chế tạo ra dưới thời Stalin để chỉ các
chế độ cộng sản hoặc thân cộng, để chống lại cái mà họ gọi là “dân chủ
tư bản”, nghĩa là dân chủ như cả thế giới chấp nhận hiện nay và chúng ta
cũng đang muốn tiến tới. Dùng quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là
phủ nhận dân chủ ngay trong tên nước. Về nghĩa chính trị “dân chủ cộng
hòa” và “xã hội chủ nghĩa” chỉ là một. Điều này cả thế giới biết. Sự
kiện một số trí thức dân chủ, điển hình là nhóm Kiến Nghị 72, đề nghị
trở lại quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một điều rất đáng tiếc.
Nghiêm trọng hơn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là quốc hiệu của một chế độ hung bạo đã phạm nhiều tội ác lớn.
Ngay sau Cách Mạng Tháng 8, nó đã tàn sát thẳng tay hàng trăm nghìn
người yêu nước trong các đảng phái không cộng sản, gây đổ vỡ lớn trong
dân tộc và khiến cuộc đấu tranh giành độc lập trở thành nhiều lần khó
khăn và đẫm máu hơn vì bị đồng hóa với cuộc đấu tranh áp đặt chủ nghĩa
Mác-Lênin. Rất nhiều người tham gia mặt trận Việt Minh đã phải quay lưng
lại với nó vì tính mạng của họ bị đe dọa và chủ nghĩa đã được đặt lên
trên lợi ích dân tộc. Những năm đầu của giai đoạn kháng chiến 1945 –
1954 đã là những năm kinh hoàng. Khẩu hiệu lúc đó “giết nhầm còn hơn tha
nhầm”. Người ta có thể bị giết vì bị tình nghi là đảng viên Việt Nam
Quốc Dân Đảng hay Đại Việt và người ta cũng có thể bị giết chỉ vì trong
người có cái gương nhỏ để chải đầu hay có miếng vải mầu xanh hay mầu đỏ
vì bị kết tội là làm dấu hiệu cho máy bay hay mang cờ Pháp. Không có mục
tiêu nào dù cao cả đến đâu có thể biện hộ cho những tội ác này, huống
chi đây là cuộc chiến tranh đáng lẽ không có, hay dù có cũng dễ dàng và
nhanh chóng hơn nhiều, nếu chủ nghĩa Mác – Lênin không được đặt cao hơn
tổ quốc. Ngày nay nhiều vị cách mạng lão thành biện luận rằng họ đã chỉ
đi theo kháng chiến vì độc lập dân tộc. Họ có thể thành thực nhưng đó
không phải là lập trường của những người lãnh đạo cộng sản, nghĩa là
những người quyết định tất cả.
Ngay sau Hiệp Định Genève là cuộc tàn sát những người bị coi là thuộc
thành phần địa chủ trong đợt Cải Cách Ruộng Đất. Họ bị giết không phải
vì đã làm gì bị coi là có tội mà chỉ vì bị xếp loại là thuộc thành phần
địa chủ. Ai có thể quên được câu “thơ” Tố Hữu “giết, giết nữa, bàn tay
không chút nghỉ”? Theo cuốn “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam” do Viện Kinh Tế
Việt Nam xuất bản năm 2009 con số nạn nhân bị thảm sát được ghi nhận là
172.008 người. Một con số kinh khủng. Theo định nghĩa của công pháp quốc
tế đây là một tội ác lớn đối với loài người.
Rồi đến chiến dịch đàn áp trí thức văn nghệ sĩ, điển hình là vụ Nhân
Văn – Giai Phẩm, để dập tắt mọi tư duy độc lập, kiểm soát đến cả miếng
ăn manh áo để thực hiện theo nghĩa đen và tuyệt đối chế độ toàn trị.
Đặng Phúc Lai (1934 – 2003) là một nhà nghiên cứu toán và triết. Ông vừa
20 tuổi năm 1954 khi đất nước bị chia cắt. Ông chọn ở lại miền Bắc thay
vì theo gia đình vào Nam vì cảm tình với Việt Minh và lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Khi sang Paris để trị bệnh ung thư năm 2002 ông kể là đã bị giam
giữ suốt 13 năm chỉ vì bị tình nghi là chống Đảng. Nhà văn Trần Hoài
Dương (1943 – 2011) mà tôi gặp tại London kể lại cho tôi nghe chuyện anh
tới thăm nhà thơ Trần Dần. Trần Dần đang ngồi uống “nước trà không có
trà”, nghĩa là nước sôi rót vào bình trà dù không có trà để cố tưởng
tượng hương vị trà, thì bà vợ đi buôn chợ trời về báo tin mất mấy đôi
dép. Hôm đó là ngày 01-9. Trần Dần hỏi vợ đã treo cờ trước cửa nhà chưa
vì ngày mai là lễ quốc khánh. Khi vợ trả lời là chưa treo thì ông la
lên: “Treo ngay đi! Nhà ai quên thì còn được chứ nhà mình mà quên treo
cờ thì khổ lắm”. Người ta cũng chưa quên câu nói của Nguyễn Tuân: “Tao
mà còn sống được là nhờ biết sợ”. Và hai câu thơ nổi tiếng trong giới
trí thức văn nghệ sĩ: ” bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới
được phần may ô”. Người ta cùng khổ và uất ức nhưng vẫn phải nói dối là
rất sung sướng, rất hân hoan, rất phấn khởi hồ hởi. Ai còn muốn sống lại
giai đoạn này?

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một chế độ khủng bố. Khủng bố để áp đặt
cuộc nội chiến Nam – Bắc 1960 – 1975 kéo dài 15 năm làm đất nước tan
hoang và sáu triệu người chết và tàn phế. Một trong những cái giá phải
trả để theo đuổi cuộc chiến thảm khốc này là phải tôn sùng “anh cả Liên
Xô và anh hai Trung Quốc”. Đó là chế độ đã ký công hàm 14/9/1958 nhìn
nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa và đã im lặng
khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Đó cũng là chế độ sau tháng
4-1975 đã ngạo nghễ thi hành chính sách cướp bóc trắng trợn, hạ nhục và
bỏ tù tập thể đối với miền Nam, cùng với vô số biện pháp phân biệt đối
xử khác, làm tan vỡ tình nghĩa dân tộc. Cũng chính nó, do một sự mê muội
khó tưởng tượng, đã chọn tự hóa thân thành CHXHCNVN để rập khuôn theo
Liên Xô vào lúc mà đế quốc này sắp sụp đổ. Sự xấc xược tàn bạo đã đi tay
trong tay với sự mù quáng.
Người ta còn có thể nhắc lại nhiều điều khác, như chính sách hợp tác xã dẫn cả miền Bắc tới sự đói khổ cùng cực.
Có mọi lý do để quên đi chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Trở lại với
quốc hiệu VNDCCH là trở lại với quốc hiệu của một trong hai phe nội
chiến, với những tội ác và những sai lầm kinh khủng, và ngoáy dao vào
những vết thương vẫn còn rướm máu trong lòng dân tộc. Thật khó tưởng
tượng có thể còn có những người đề nghị như vậy. Không những thế nó còn
là chọn lựa bất lợi cho mọi người. Đối với đảng cộng sản đó là sự thú
nhận rằng giai đoạn 37 năm của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã là
một sự lầm lạc, nhưng nó cũng không có giá trị của một sự sửa sai mà chỉ
là sự trở lại với một chọn lựa còn độc hại hơn và chứng tỏ đảng cộng
sản hoàn toàn không hối hận. Đối với nhân dân Việt Nam nó nhắc nhở một
giai đoạn của đói khổ, giết chóc, thù hận, dối trá và độc ác. Xét cho
cùng giai đoạn Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không tệ hại bằng giai
đoạn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Nhưng thực tế là đã có nhiều người đưa ra đề nghị này trong đó có cả
những trí thức muốn đổi mới. Và họ đều có cùng một lập luận. Các trí
thức đưa ra đề nghị này cũng như Ủy Ban Sửa Đổi Hiến Pháp đều viện dẫn
lý do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là chế độ do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập. Hình như sự kiện “do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập” tự nó đủ để bảo
đảm sự đúng đắn của đề nghị. Trên nhiều vấn đề khác cũng thế, người ta
viện dẫn “chủ tịch Hồ Chí Minh” như là một bảo đảm cho lập luận của
mình.
Đã đến lúc phải nói chuyện thẳng thắn với nhau.
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam đặt nền tảng trên
ba huyền thoại : 1/ lý tưởng cộng sản; 2/ thành tích chiến đấu thắng
Pháp, thắng Mỹ đem lại độc lập và thống nhất đất nước; và 3/ thần tượng
Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng lớn, một nhà chính trị lỗi lạc, một mẫu
mực về đạo đức, đồng thời cũng là một người giản dị, khắc khổ chỉ sống
cho đất nước. Ngày nay lý tưởng cộng sản không những đã sụp đổ mà còn bị
lố bịch hóa và lên án; các cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ ngày càng bị
đánh giá là không cần thiết, thậm chí có hại cho đất nước, vả lại đàng
nào cũng quá xưa rồi và không liên quan gì với những người lãnh đạo hiện
nay. Còn lại thần tượng Hồ Chí Minh, bùa hộ mạng cuối cùng của chế độ.
Chính vì thế mà chế độ đánh bóng ông, tô điểm ông và bảo vệ ông. Bộ luật
hình sự coi việc xúc phạm lãnh tụ (diễn nghĩa: đả kích Hồ Chí Minh) là
một tội nặng. Và người ta đã gán ghép cho Hồ Chí Minh những đức tính mà
ông không hề có. Đối với giới trí thức phản biện Hồ Chí Minh cũng là một
lá bùa hộ mệnh. Đề cao ông chứng tỏ mình không phải là kẻ thù của chế
độ, chỉ muốn cải tiến; phê phán những người lãnh đạo là không làm theo
đúng lời dạy của Bác Hồ vừa tương đối an toàn vừa dễ lọt tai khối đảng
viên cơ sở đã được nhồi sọ để tôn thờ lãnh tụ. Dần dần sự sợ hãi -sợ bị
đi tù, sợ mất quyền lợi hay sợ mất lòng khối đảng viên cơ sở- được coi
như một sự sáng suốt thay vì một sự nhút nhát. Một người bạn trong nước
nói với tôi một cách tự nhiên: “Nói gì thì nói nhưng không nên đụng tới
ông Hồ Chí Minh”. Tại sao không? Thóa mạ và bôi nhọ một người đã chết
thì dứt khoát là không nên rồi nhưng sự thực thì vẫn có thể nói và không
những thế còn có bổn phận phải nói ra để tránh cho quần chúng khỏi là
nạn nhân của những xuyên tạc bịp bợm.
Huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ là một sự dàn dựng dối trá. Ông chỉ học
tới lớp 7 rồi bỏ học sinh sống bằng những nghề lặt vặt như phụ bếp và tô
ảnh. Không có bằng chứng nào là ông đã cố gắng tự học. Ông tuyệt đối
không có kiến thức nào về khoa học, kỹ thuật, luật pháp, kinh tế, tài
chính v.v. nói chung là những kiến thức tối cần thiết cho một người lãnh
đạo. Và ngay cả về nông nghiệp. Trong cuốn sách “Mấy kinh nghiệm Trung
Quốc cần phải học” mà ông viết dưới bút hiệu Trần Lực (nhà xuất bản Sự
Thật, 1958, tr. 41), ông tin và kêu gọi mọi người tin là một mẫu ruộng
tại Trung Quốc có thể đạt được năng suất 333 (ba trăm ba mươi ba) tấn
lúa mỗi năm. Ông cũng không phải là người có đạo đức. Ông bỏ rơi bà vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, ra lệnh giết hoặc chấp nhận để người ta giết
cô Nông Thị Xuân, người phụ nữ trẻ đã có con với ông và bỏ rơi luôn đứa
con để giữ hình ảnh giả dối của một người cha già dân tộc giản dị khắc
khổ chỉ biết sống cho đất nước. Ông đã để mặc cho bà Nguyễn Thị Năm bị
giết oan về tội “địa chủ gian ác” mặc dù biết rõ bà Năm không những vô
tội mà còn có công với Việt Minh.
Và ông phải chịu trách nhiệm chính về hai tội ác lớn nhất tại nước ta
trong thế kỷ 20: tội tàn sát những người yêu nước không cộng sản sau
Cách Mạng Tháng 8 và tội tàn sát địa chủ trong đợt Cải Cách Ruộng Đất
1955. Không gì có thể biện hộ cho ông vì lúc đó ông thực sự cầm quyền và
hơn nữa có toàn quyền.
Thành tích quan trọng nhất không ai chối cãi của Hồ Chí Minh là đã du
nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam nhưng đây chỉ là một tai họa cho
nước ta và tố giác sự thiếu văn hóa và tầm nhìn của Hồ Chí Minh vì lúc
đó chủ nghĩa Marx đã bị bác bỏ trên chính quê hương của Marx từ 70 năm
rồi (2).
Tất cả các trí thức trong nước mà tôi có dịp tiếp xúc đều biết khá rõ
về Hồ Chí Minh và chẳng ai thực sự kính trọng ông. Trong chuyện trò
riêng tư họ đều đánh giá ông là một người thiếu cả văn hoá và tầm nhìn
lẫn đạo đức và tình cảm. Tất cả đều cho rằng về kiến thức cũng như đạo
đức Hồ Chí Minh rất dưới mức trung bình. Tuy vậy trong những gì viết và
nói công khai họ vẫn tỏ ra tôn kính ông. Nhiều người còn cho đó là một
chiến lược khôn ngoan để đấu tranh cho dân chủ. Tôi chưa bao giờ tán
thành quan điểm này. Đó chỉ là nói dối với chính mình đồng thời đóng góp
lừa dối người khác và sự nói dối nào cũng đáng xấu hổ. Khối đảng viên
cơ sở bị tuyên truyền nhồi sọ về thần tượng Hồ Chí Minh cần được soi
sáng thay vì được củng cố trong niềm tin sai. Thảm kịch của đất nước,
hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội bị sát hại và hàng triệu nạn nhân của
cuộc nội chiến buộc ta phải nói lên sự thực. Im lặng đã là có tội, hùa
theo sự dối trá càng có tội hơn. Tôi không thích nói về Hồ Chí Minh vì
đó là công việc của các sử gia, vả lại những sự thực về ông đã được
nhiều người phơi bày. Ông đã thuộc về quá khứ và nên được để yên trong
quá khứ. Tôi miễn cưỡng nói về ông vì lần này huyền thoại Hồ Chí Minh
đang được sử dụng để vận động cho một đề nghị quốc hiệu mà nếu được chấp
nhận sẽ là một bước lùi cho tiến trình dân chủ hóa và sẽ chia rẽ dân
tộc một cách trầm trọng vào giữa lúc chúng ta đang cần hòa giải dân tộc
để cùng hướng về một tương lai chung. Bình sinh ông Hồ Chí Minh đã gây
nhiều đổ vỡ, không nên để ký ức ngụy tạo của ông lôi kéo đất nước vào bế
tắc một lần nữa. Nhiều trí thức cũng cần nghĩ lại để đừng rơi vào cái
bẫy của chính mình. Họ muốn sử dụng biểu tượng Hồ Chí Minh như một vũ
khí giai đoạn để thay đổi chế độ nhưng vô tình họ cũng đóng góp củng cố
chế độ vì huyền thoại Hồ Chí Minh chính là chỗ dựa còn lại của chế độ.
Trong một cái nhìn sáng suốt về tương lai Cộng Hòa Việt Nam là quốc
hiệu đúng nhất. Cộng hòa theo từ nguyên Hy Lạp res publicae của nó có
nghĩa là “của toàn dân”. Các nước có ảnh hưởng Hán văn dịch ra là “dân
quốc” hoặc “cộng hòa”. Bên hữu thích dân quốc và bên tả thích cộng hòa;
hai danh từ này có cùng một nghĩa. Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc và Nam
Cao Ly là Đại Hàn Dân Quốc trong khi Hoa Lục, Bắc Cao Ly và Việt Nam tự
xưng là những nước cộng hòa. Trường hợp miền Nam Việt Nam trước đây,
với quốc hiệu Việt Nam Cộng Hòa (cũng sai ngữ pháp như Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa), là một ngoại lệ. Ngày nay danh từ “cộng hòa” đã trở thành
thông dụng.
Quốc hiệu Cộng Hòa Việt Nam không chuyên chở một thiên kiến chính trị
hay ý thức hệ nào mà chỉ có nghĩa là đất nước của mọi người Việt Nam,
không loại trừ một ai. Đất nước là tài sản chung, trách nhiệm chung và
tương lai chung. Cộng Hòa Việt Nam là quốc hiệu của hòa giải dân tộc,
xác nhận chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người Việt Nam. Đó
chắc chắn sẽ là quốc hiệu của Việt Nam trong tương lai ngay cả nếu đảng
cộng sản từ chối trong lúc này. Chế độ toàn trị sẽ cáo chung và sắp cáo
chung. Việt Nam sẽ là một nước dân chủ đa nguyên với quốc hiệu Cộng Hòa
Việt Nam. Không thể khác.
Nếu sáng suốt thì chính Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nên chọn quốc
hiệu này ngay từ bây giờ. Họ sẽ tiết kiệm thời giờ cho một chính quyền
dân chủ sau này, đồng thời để lại một di sản được gìn giữ và trân trọng,
thay vì chỉ được nhớ đến cùng với những sai lầm và tội ác.
Nguyễn Gia Kiểng
(05/2013)
(05/2013)
(1) Còn một nước có quốc hiệu gần như thế: Cộng Hoà Dân Chủ và Xã Hội
Chủ Nghĩa Sri Lanka. Nhưng đây là một nước nhỏ và bị coi như một “đất
nước không thành” (failed state) vì tụt hậu, nghèo đói và nội chiến.
(2) Tại đại hội Gotha, tháng 5-1875, phong trào xã hội Đức (do sự
thống nhất của Tổng Hội Công Nhân và Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội),
xương sống của phong trào cộng sản Châu Âu lúc đó, đã bác bỏ chủ nghĩa
Marx và chọn đường lối cải tổ ôn hòa. Marx và Engels đã trả đũa bằng
cách viết cuốn Phản bác cương lĩnh Gotha, nhưng cuốn sách này không được
hoan nghênh vì những lý luận và dự đoán của Marx đã bị thực tế chứng
minh là sai.