Nguyễn Duy Vinh
Nhân
mấy hốm nay có nhiều bài viết về hiến pháp Việt Nam trên mạng, tôi cũng
đọc và sửa lại đôi chút bài viết này để xin phát biểu cái nhìn của
mình. Tôi
chỉ chú trọng đến những thay đổi cơ bản và đột ngột của các văn bản
hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 và tôi sẽ không bàn đến tính cách hợp
hiến hay không hợp hiến cũng như giá trị pháp lý của những văn bản nêu
trên.
Trước
tiên tôi cũng xin được phép nói qua về hai chữ “hiến pháp”. Theo một số
các chuyên gia về luật và các nhà soạn thảo hiến pháp, hiến pháp của
một quốc gia là một hợp đồng hay có thể gọi nôm na là giao kèo giữa
người dân và nhà cầm quyền. Giao kèo này quy định việc gì mỗi bên được
làm và không được làm, nhưng quan trọng hơn hết là giao kèo đó giới hạn
quyền lực của nhà cầm quyền trong khi quản lý việc nước. Nhìn trên
phương diện ba quyền biệt lập (tam quyền phân lập) theo cấu trúc của sự
phân chia quyền lực minh bạch ở những nước dân chủ Tây phương (những
quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp), quốc hội là cơ quan lập pháp quy
tụ toàn thể dân biểu đại diện dân có quyền soạn thảo, sửa đổi và bổ sung
hiến pháp. Tuy nhiên, ở đây phải nói ngay là hiến pháp dù có hay cách
mấy mà không được tôn trọng thì tính cách dân chủ hay việc giới hạn
quyền lực của nhà nước cũng bị lung lay.
Đi
ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng tư tưởng dân chủ và các cố gắng
nhằm xây dựng một hiến pháp dân chủ cho Việt Nam đã manh nha từ những
năm đầu của thế kỷ thứ 20 (xin đọc lại những tác phẩm của Phan Chu
Trinh, Phan Bội Châu v.v…) và những tư tưởng này đã từng là ngọn đuốc
soi đường cho nhiều đảng phái chính trị Việt Nam. Văn bản hiến pháp 1946
ra đời vào cuối tháng 11 năm 1946 có thể coi là một điểm son trong quá
trình xây dựng dân chủ ở nước ta.
Hiến
Pháp 1946 đã được xây dựng trên 3 nguyên tắc dân chủ có thể cho là tiến
bộ vào thời điểm đặc biệt của cuộc tranh đấu dành độc lập của dân tộc
Việt Nam : đoàn kết dân tộc, bảo đảm các quyền tự do căn bản và xây dựng
một nhà nước pháp trị. Bản hiến pháp này có đủ những điều khoản ghi rõ
quyền tự do bầu cử và ứng cử, quyền tư hữu của công dân và nhất là quyền
phúc quyết của người dân (trưng cầu dân ý) về văn bản hoặc bất cứ điều
khoản nào của hiến pháp. Văn bản 1946 ghi rõ các quyền : tự do ngôn
luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự
do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước. Ngoài ra
khi tòa án (tức là quyền tư pháp) chưa quyết định thì nhà nước không
được bắt bớ và giam cầm người dân. Nhà ở và thư tín của công dân Việt
Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp lụât.
Tuy
nhiên hiến pháp 1946 cũng có vài kẽ hở. Một trong những kẽ hở quan
trọng, theo các nhà chuyên soạn thảo luật, là Hiến Pháp 1946 đã không đề
ra một cơ quan có thẩm quyền phán quyết về tính cách hợp hiến hay bất
hợp hiến của các đaọ luật hoặc những nghị quyết do nhà cầm quyền ban
hành.
Kẽ
hở thứ hai của hiến pháp 1946 là hiến pháp này có điều khoản “chủ tịch
nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản
quốc”. Điều khoản này đặt chủ tịch nước lên trên cả hiến pháp và hình
như có tính cách sửa soạn sự “lên ngôi” của một lãnh tụ đảng.
Và
sự ra đời của hiến pháp 1959 của nước VNDCCH có thể được xem như kết
quả của một tư duy cộng sản vẫn từng nhen nhúm âm ỉ từ lâu nhưng nay mới
có cơ hội thành hình. Các từ ngữ như Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao
Động VN, đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ v.v… đã đột ngột xuất hiện trong hiến
pháp 1959. Và hiến pháp 1946 hoàn toàn không còn dấu tích trong văn bản
hiến pháp 1959. Xin chép lại dưới đây một phần của văn bản 1959:
“Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là
Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn
mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân
ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng
lợi vĩ đại… Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến
tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần
nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một
lòng đứng lên đánh giặc cứu nước… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Dân tộc Thống
nhất, nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”…
Rồi
việc gì đến sẽ đến, sau năm 1979, tức là sau cuộc xung đột đẫm máu giữa
Việt Nam và Trung Quốc, ĐCSVN đã cho ra đời hiến pháp 1980 với những
lời nhập đề hoàn toàn mới. Xin chép lại đây một đoạn của lời mở đầu :
…“Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đi con đường của Cách mạng tháng Mười
Nga, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ và
bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân…
nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ
tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân
tộc, quân và dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây-Nam
và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình….”….
Năm
1986, Tổng Bí Thư (TBT) ĐCSVN Lê Duẩn qua đời. Cùng năm đó đại hội 6
của ĐCSVN bầu ông Nguyễn Văn Linh làm TBT. Ông Nguyễn Văn Linh là một
thành viên kỳ cựu của chi nhánh Nam Bộ của ĐCSVN. Ông Linh đã từng bí
mật sang Trung Quốc (TQ) gặp gỡ Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông trong thời
kỳ chiến tranh Nam Bắc VN trước 1975. Từ năm 1986 ông Linh đã có những
cuộc gặp gỡ với đại sứ TQ ở VN tại Hà Nội (Đại Sứ Trương Đức Duy) ngay
sau khi lên chức TBT. Những cuộc gặp gỡ này không ngoài mục đích sửa
soạn cho một cuộc gặp gỡ bí mật giữa ông Nguyễn Văn Linh và TBT ĐCSTQ là
ông Giang Trạch Dân vào năm 1991 tại Thành Đô (Tứ Xuyên, TQ). Một năm
sau cuộc gặp gỡ ở Thành Đô, TBT mới của VN (thay ông Linh) là ông Đỗ
Mười và ông chủ tịch nước Võ Văn Kiệt chính thức công du Trung Quốc.
Hiến pháp 1992 ra đời ngay sau chuyến công du này và từ nay các từ ngữ ám chỉ đến bọn bá quyền TQ đã được hoàn toàn lấy đi :
…“Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện… nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục
chiến đấu, với sự giúp đỡ quí báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công
oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và
đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân”…..
Tháng
2 năm 1999, lãnh tụ hai nước VN và TQ công bố một tuyên cáo chung xác
định mối giao hảo mới giữa TQ và VN trong đó 16 chữ vàng xuất hiện. Từ
nay hai nước sẽ có một mối quan hệ mới có tính cách “ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, và hợp tác toàn diện”.
Những
sự kiện xảy ra gần đây, từ việc lấn áp của TQ trong việc chia cắt biên
giới Việt Trung, cho đến những cuộc xâm lấn biển đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cho thấy người bạn láng giềng phương Bắc không phải là một người bạn
tốt. Mộng bành trướng của đế quốc TQ là một hiện thực.
Sự
rụt rè và thiếu cứng rắn trong việc chống đối những thao túng của TQ ở
biển Đông hiện nay của nhà cầm quyền VN cho thấy có điều gì không ổn và
vô cùng bí ẩn. Đó là chưa kể
việc cấm dân không được biểu tình chống đối TQ cũng như việc dùng công
an và côn đồ xã hội đen đàn áp những người tham dự các cuộc xuống đường
này. Về phía Bắc VN, những bia mộ tưởng niệm những chiến tích của quân
đội VN sau trận chiến đẫm máu với TQ năm 1979 cũng dần dà bị nhà nước VN
xóa đi.
Bản
báo cáo hàng năm của cơ quan Human Rights Watch năm 2012 (World Report
2012) về Việt Nam (VN) ghi nhận rõ ràng nhà nước VN có sách nhiễu và
khủng bố những người lên tiếng kêu gọi dân chủ và nhân quyền cũng như
những người xuống đường chống việc xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa và Trường
Sa VN bởi TQ :
…..Chính
phủ Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập
hội và nhóm họp ôn hòa. Các nhà văn, blogger và các nhà vận động nhân
quyền độc lập – những người lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước, phát
hiện quan chức tham nhũng hoặc kêu gọi thay đổi chế độ độc đảng bằng
các giải pháp dân chủ thường xuyên bị công an sách nhiễu, theo dõi gắt
gao, bị giam giữ biệt lập trong thời gian dài đồng thời không được tiếp
cận với các nguồn trợ giúp pháp lý, và bị xử với các mức án ngày càng
nặng hơn với các tội danh mơ hồ về xâm phạm an ninh quốc gia. Công an
thường tra tấn can phạm để ép nhận tội và, trong một số vụ việc, đã sử
dụng vũ lực quá mức khi đối phó với những cuộc biểu tình đông người phản
đối việc cưỡng chiếm nơi ở, thu hồi đất đai hay bạo hành của công an.
Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
trong năm 2011 (LTS : và gần đây nhất ngày 01 tháng 07 năm 2012) bị
công an giải tán, những người tham gia biểu tình bị đe dọa, sách nhiễu,
và một số trường hợp bị tạm giam trong một vài ngày. Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ 11 tổ chức vào tháng giêng năm 2011 và cuộc bầu cử
Quốc Hội do nhà nước dàn dựng vào tháng Năm đã xác lập các vị trí lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và chính phủ trong năm năm tiếp theo. Qua cả hai
sự kiện nói trên, không hề thấy có dấu hiệu của bất kỳ một sự cam kết
nghiêm túc nào nhằm cải thiện thành tích nhân quyền kém cỏi của Việt
Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình vào
tháng Bảy, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Công an và những nhân tố bảo thủ
khác.
Chỉ
cần một đoạn văn ngắn của cơ quan Human Rights Watch cho năm 2012 cũng
đủ để nói lên một chuỗi liên tục những ngày sống trong kềm kẹp và sợ hãi
của người dân trong nước. Một bất hạnh lớn cho cả một dân tộc.
Sự
thao túng độc quyền về cách cai trị cũng như những đàn áp đầy bạo lực
gần đây nhất với các vụ cưỡng chế đất đai cho thấy Tự Do – Độc Lập –
Hạnh Phúc là những khát vọng vẫn còn rất xa vời.
Khảo
sát sự thay đổi đột ngột của những văn bản hiến pháp VN từ năm 1946,
chúng ta có thể kết luận hiến pháp Việt Nam hiện nay tùy thuộc rất nhiều
vào hoàn cảnh chính trị có tính cách nhất thời. Sự thay đổi xoành xoạch
này cho thấy hiến pháp Việt Nam là một giao kèo lỏng lẻo và hời hợt.
Thêm vào đó, cách quản lý độc đoán với một nền cai trị pháp quyền dưới
sự kiểm soát của nhà nước hiện nay trong nước chắc chắn sẽ đưa đến những
cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng hơn trong tương lai.
Và
nếu chúng ta đọc kỹ bài phát biểu của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (TBT
NPT), đọc trước hội nghị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng ngày 02
tháng 05 năm 2013 tại Hà Nội, chúng ta có thể tiên đoán rằng những thay
đổi sắp đến của Hiến Pháp 1992, nếu có, như nhà nước vẫn đang kêu gọi
dân chúng đóng góp vào Dự Thảo sửa đổi hiến pháp 1992, sẽ chỉ đi vào
những chi tiết nhỏ thôi. Phần quan trọng nhất mà đa số các nhà trí thức
trong và ngoài nước kêu gọi (tỉ dụ Kiến Nghị 72), cũng như đa số các hội
đoàn tôn giáo đạo Ky Tô và đạo Phật trong và ngoài nước kêu gọi, sẽ
không được nhà nước coi trọng và bàn đến. Tôi xin chép lại một phần của
bài phát biểu của ông TBT NPT dưới đây để chứng minh cho điều tôi vừa
viết :
Nhà
nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến
pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự
cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao.
Đối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, Trung
ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải
trình phù hợp.
Những
ai còn mơ về một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng, trong đó không có
chỉ một đảng cai trị như ở Việt Nam hiện nay, xin cứ tiếp tục mơ. Vì lấy
đi “Điều 4 của Hiến Pháp 1992” sẽ không được đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay chấp nhận.
Dự
thảo sửa đổi hiến pháp 1992 của nhà nước Việt Nam nghe thì kêu to nhưng
trong ruột thực ra trống rỗng. Ai không tin chỉ việc đọc lại lời phát
biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trước hội nghị trung ương ĐCSVN khóa 7 tại
Hà Nội.
Nguyễn Duy Vinh
(TS Cơ Khí Động Học về hưu và đang dạy học tại Châu Phi)