Tony Judt, Phan Trinh dịch
___________
Giới thiệu của người dịch:
Đây là đoạn cuối Chương 18 cuốn Post War của Tony Judt. Sau khibàn về trí thức Tây Âu và Đông Âu,
tác giả nói về nền kinh tế bế tắc và vờ vịt tại Đông Âu, bối cảnh của
những biến động chính trị và xã hội dẫn đến cách mạng 1989 lật đổ cộng
sản.
Nếu nghịch
lý là gốc của cái hài thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xem
như một vở kịch khôi hài đen, dù đỏ ngầu. Trong những vở đỏ đen nhiều
tập kia, Tony Judt nhắc đến hai quái tật chết người của chế độ, ở Đông
Âu trước đây, và cũng không khó thấy ở cả Việt Nam lâu nay, có thể tóm
tắt nôm na như sau:
1.
Lỗ vẫn làm: Thay vì kinh tế định đoạt chính trị như người cộng sản vẫn
nói, chính trị cộng sản lại xúi bậy kinh tế. Kinh tế không xuất phát từ
nhu cầu người tiêu dùng mà từ ý chí chủ quan của bề trên. Trên bảo sao
dưới nghe vậy, làm khác là mất việc, phản biện thì phớt lờ, phản đối thì
bỏ tù. Hậu quả là lỗ vẫn làm. Ở Việt Nam, những vụ như Boxit, Vinashin,
rừng phòng hộ, điện hạt nhân, đường sắt cao tốc, 16 chữ… là những ví dụ
của lỗ vẫn làm, càng làm càng lỗ, hoặc thấy lỗ mà/là cứ đâm đầu vào.
Không chỉ lỗ tiền, còn lỗ cả mạng người, môi trường, lãnh thổ, cả sinh
mạng Đảng.
2.
Sai không sửa: Tất cả những thất bại, vờ vịt của nền kinh tế kia Đảng
biết cả nhưng vẫn im lặng, như một nấm mồ. Đảng không dám phẫu thuật,
chỉ dám dùng thuốc giảm đau tại chỗ. Thực ra, khi kinh tế đã đan xen vào
chính trị thành một “khối thống nhất” thì đứt dây động rừng, sửa sẽ
sụp. Học thuật thì nói như Tony Judt: Giữa hai cái xấu, Đảng chọn cái
xấu ít hơn. Huỵch toẹt thì cũng có thể nói rằng: Đảng rất hiểu cố đấm ăn
xôi là xấu, nhưng vẫn đỡ xấu hơn, đỡ đau hơn và khó chết hơn là thực
tâm thay đổi. (Chẳng lạ, bao nhiêu kiến nghị, phản biện, góp ý của trí
thức Đảng cứ giả vờ như không có. Hóa ra, những kiến nghị kia không đánh
thức được Đảng mà đánh thức xã hội dân sự.) Nhưng, cũng như ung thư
không chữa, Đảng đang sống ở giai đoạn cuối, Judt gọi là mượn thời gian
để sống, được ngày nào hay ngày ấy, dân gian gọi là chờ chết.
___________________
Tiến là thoái
Đề
tài mà các trí thức phản kháng ít bàn tới chính là kinh tế. Điều này
cũng là một phản ứng thực tế. Kể từ thời Stalin thì tăng trưởng kinh tế,
hay đúng hơn là tăng trưởng công nghiệp, vừa được xem như mục tiêu vừa
được xem như thước đo mức thành công của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, như
trình bày trong Chương 13 cuốn sách này, là ưu tiên hàng đầu của thế hệ
trí thức cải cách thời kỳ đầu: nó phản ánh nỗi ám ảnh của chế độ cộng
sản và một quan điểm, được cả người theo lẫn không theo chủ nghĩa Marx
đồng tình, rằng mọi động thái chính trị chung quy cũng chỉ là vì kinh tế
mà thôi. Vì vậy, có thể nói trong giai đoạn 1956-1968 lúc Đông Âu loay
hoay tìm cách tự cải tổ, phản biện để cải cách kinh tế chính là hình
thức đối lập tốt nhất có thể có, dù là đối lập trong vòng “lễ giáo”.
Nhưng
đến giữa thập niên 1970, những người thông thạo tình hình đã không còn
dám hy vọng nền kinh tế khối Xô-viết có thể tự cải tổ từ bên trong, và
lý do không chỉ vì lý thuyết kinh tế Mác-xít đã sụp đổ sau nhiều thập
niên bị lạm dụng tàn tệ, mà còn vì nguyên nhân khác. Từ năm 1973, nền
kinh tế các nước Đông Âu thụt lùi rất xa so với Tây Âu, không bằng cả
mức tăng trưởng chậm lúc suy thoái của Tây Âu. Ngoại trừ Liên Xô có
nhiều mỏ dầu mang lại ngoại tệ, nhất là khi dầu tăng giá, thì nạn lạm
phát trên thế giới vào thập niên 1970 và việc “toàn cầu hóa” thương mại
và dịch vụ vào thập niên 1980 ở phương Tây đã đẩy nền kinh tế các nước
khối Xô-viết vào thế bất lợi không thể khắc phục. Nếu vào năm 1963 hoạt
động ngoại thương của các nước Khối Comecon (Đông Âu) đạt mức 12% tổng
lượng ngoại thương toàn cầu, thì đến năm 1979 con số này lại rớt xuống
chỉ còn 9% và còn nhanh chóng sụt giảm hơn nữa.[i]
Các
nước khối Xô-viết không thể cạnh tranh về chất lượng với các nền kinh
tế phương Tây. Cũng không nước nào, ngoại trừ Liên Xô, có nguồn nguyên
liệu thô ổn định để bán cho phương Tây, vì vậy, họ không thể cạnh tranh
cả với những nước kém phát triển nhưng giàu tài nguyên trên thế giới.
Tính khép kín của khối Comecom còn khiến các nước này không thể tham gia
những mạng lưới thương mại mới hình thành của Tây Âu, hoặc tham gia
Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Họ cũng không thể
điều chỉnh nền kinh tế cho phù hợp với giá cả thị trường thế giới mà
không làm người tiêu dùng trong nước phải nổi đóa (như đã xảy ra tại Ba
Lan năm 1976).
Ý thức hệ xúi dại
Khuyết
điểm làm lụn bại các nền kinh tế cộng sản lúc này chính là sự bất lực
thâm căn do ý thức hệ xui khiến mà ra. Vì duy ý chí, quyết liệt tập
trung sản xuất sản phẩm công nghiệp cơ bản nhằm đáp ứng công cuộc “xây
dựng chủ nghĩa xã hội”, khối Xô-viết đã bỏ lỡ chuyến tầu đưa nền kinh tế
từ sản xuất hàng loạt qua sản xuất chuyên sâu giá trị cao, vốn đã làm
thay đổi toàn bộ diện mạo các nền kinh tế phương Tây vào thập niên 1960
và 1970. Họ cố bám vào mô hình kinh tế đã quá cũ kỹ, nhìn là nhớ đến
Detroit hoặc Ruhr vào thập niên 1920, hoặc thậm chí cả Manchester cuối
thế kỷ 19.
Vì
vậy Tiệp Khắc, nước có rất ít quặng sắt, vào năm 1981 vẫn phải trở
thành quốc gia đứng thứ ba thế giới (tính theo đầu người) về xuất khẩu
thép. Đắng hơn nữa là Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) lúc đó cũng đang
lên kế hoạch sản xuất lớn những sản phẩm công nghiệp nặng đã hoàn toàn
lỗi thời. Chẳng khách hàng đủ tỉnh táo nào lại muốn đi mua thép Tiệp
Khắc hoặc máy móc Đông Đức, trừ khi được trợ giá cực rẻ, nên rút cuộc
các sản phẩm này càng sản xuất, càng bán, càng lỗ vốn. Hậu quả là các
nền kinh tế kiểu Xô-viết thay vì tạo ra giá trị thặng dư, lại tạo ra giá
trị âm trừ. Thật vậy, nguyên liệu thô mà họ nhập khẩu hoặc khai thác từ
lòng đất có giá trị còn cao hơn thành phẩm được làm từ nguyên liệu thô.
Ngay
cả trong các lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh, cách làm kinh tế kiểu
Xô-viết cũng gây thiệt hại lớn. Trong khi Hungary được Comecon chọn là
nơi sản xuất xe tải và xe buýt, Đông Đức vào thập niên 1980 được phân
công sản xuất máy vi tính. Nhưng, khôi hài không chỉ ở chỗ máy vi tính
do Đông Đức sản xuất không đáng tin cậy và cổ lỗ sĩ về chất lượng, hệ
thống kinh tế tập trung còn khiến họ không thể sản xuất đủ số lượng.
Trong năm 1989, Đông Đức (dân số 16 triệu) chỉ sản xuất được số máy vi
tính bằng 1/5 số máy sản xuất tại Áo (dân số 7,5 triệu), trong khi Áo
cũng chỉ là một đối thủ hạng ruồi trên thị trường sản xuất máy vi tính
quốc tế. “Ưu thế cạnh tranh” ở đây rất tương đối: Đông Đức chi hàng
triệu Đức-mã cho việc sản xuất những sản phẩm chẳng ai muốn dùng, trong
khi thị trường thế giới đang có những sản phẩm tương tự với chất lượng
tốt hơn và giá rẻ hơn.
Vâng ý trên
Thủ
phạm gây ra tất cả những yếu kém này chính là quy hoạch tập trung, vốn
chứa đầy khuyết tật bẩm sinh. Cuối thập niên 1970, Gosplan (Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước), cơ quan hoạch định kinh tế trung ương của Liên Xô, có
đến 40 ban ngành kinh tế khác nhau và 27 ủy hội kinh tế hoạt động riêng
biệt. Các quan chức đã bị con ngáo ộp chỉ tiêu ám ảnh nặng đến nỗi họ
luống cuống đưa đại ra những chính sách nghe là cười. Giáo sư Timothy
Garton Ash, chuyên nghiên cứu Đông Âu, nhắc đến chuyện khôi hài này tại
Đông Đức: Trong “Kế hoạch Kinh tế Nhân dân Quận Prenzlauer Berg”, khi
nói về chỉ tiêu trong việc cải tổ thư viện, người ta đã hồ hởi quy hoạch
rằng “Số lượng sách lưu trữ trong các thư viện phải tăng lên từ 350.000
đến 450.000 quyển, và số lượt mượn sách phải tăng lên 108,2%”.[ii]
Hệ
thống giá cả cố định cũng khiến không thể xác định được đâu là giá
đúng, đâu là mức cầu, đâu là chỗ cần điều chỉnh khi tài nguyên thiếu
hụt. Quản lý các cấp đều sợ rủi ro, sợ sáng tạo vì sợ không đạt chỉ tiêu
trước mắt. Thực ra, họ cũng chẳng có động lực nào để làm khác đi: họ
biết dù bất lực đến đâu, họ vẫn sẽ ngồi ở vị trí đang có, nhờ chủ trương
nổi tiếng “ổn định cán bộ” (áp dụng từ 1971 về sau) được Brezhnev rất
ưa thích. Trong khi đó, để đảm bảo chỉ tiêu bề trên định sẵn, các đốc
công và giám đốc nhà máy sẵn sàng che giấuthông tin về vật liệu và lao
động dự trữ trước mắt chính quyền. Phí phạm và khan hiếm, tưởng như đối
nghịch, đã trở thành một cặp bài trùng dung dưỡng nhau.
Nịnh hót lên ngôi
Một
hệ thống như thế rõ ràng không chỉ khuyến khích sự trì trệ, yếu kém, mà
còn thúc đẩy một vòng quay tham nhũng liên hoàn không thể ngừng. Đây là
một trong những nghịch lý của chủ nghĩa xã hội khi cho rằng chỉ có tư
sản mới nhiều tham nhũng. Quyền lực, chức vụ và đặc quyền đặc lợi tuy
không thể mua bán trực tiếp nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào mối quan hệ
trao đổi qua lại giữa chủ và khách. Quyền hạn do luật pháp quy định bị
gạt qua một bên, thay vào đó là sự nịnh hót, và kẻ nịnh hót lại được
tưởng thưởng bằng công việc ổn định và cơ hội tiến thân. Chỉ để có được
những thứ bình thường và hợp pháp như thuốc men trị bệnh, nhu yếu phẩm,
quyền đi học, người dân cũng buộc phải bẻ cong luật pháp bằng hàng loạt
chiêu trò, tuy nhỏ nhặt nhưng rất xúc phạm nhân cách.
Hậu
quả là cách ứng xử vừa bất tín vừa bất cần gần như trở thành chuẩn mực
trong những năm này. Một ví dụ tiêu biểu: Các xí nghiệp sản xuất máy kéo
hoặc xe tải đã không quan tâm sản xuất cho đủ phụ tùng, đơn giản vì họ
có thể nhanh chóng đạt chỉ tiêu khi sản xuất các cỗ xe to lớn kia hơn.
Bi kịch là khi những cỗ xe này hư hỏng thì không tìm đâu ra phụ tùng
thay thế. Những con số chính thức được công bố chỉ nêu ra tổng số máy
móc các loại được sản xuất trong một lĩnh vực nhất định, chứ không chú ý
đến chuyện còn bao nhiêu máy móc chạy được. Thông tin trên giấy thì mập
mờ, chỉ hỏi công nhân mới biết thật mọi chuyện.
Làm giả, lương giả, chợ giả
Thay
cho những khế ước xã hội đường hoàng, ở đây lại là sự đồng lõa xã
hội xã hội chủ nghĩa, và tình trạng này được diễn tả qua câu châm biếm
cay độc: “Mày giả vờ làm việc, tao giả vờ trả lương”. Nhiều công nhân,
nhất là lao động chân tay, cũng có lợi trong tình trạng này, vì họ được
hưởng những khoản an sinh xã hội trong khi chẳng cần làm việc bao nhiêu.
Cuốn Tự điển Chính trị Bỏ túi của Đông Đức đã mô tả tình trạng vừa kể
một cách vô tình nhưng thật mỉa mai qua câu sau đây: “Trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, sự khác biệt giữa giờ làm việc và giờ rảnh rỗi, vốn gay
gắt trong xã hội tư bản, không còn nữa.”
Hai
lãnh vực duy nhất tương đối có hiệu quả, trong một nền kinh tế cộng sản
tiêu biểu, tính đến năm 1980, là công nghiệp quốc phòng kỹ thuật cao và
cái được gọi là “nền kinh tế thứ hai” – tức các loại chợ đen cung cấp
hàng hóa và dịch vụ. Tầm quan trọng của nền kinh tế thứ hai này, tuy
không hề và không thể được nhà nước công nhận, là bằng chứng cho thấy
tình trạng bi thảm của nền kinh tế chính thức. Tại Hungary, vào đầu thập
niên 1980, ước tính có tới 84.000 lao động lành nghề các loại hoạt động
thuần túy trong khu vực tư nhân, đáp ứng đến gần 60% tổng nhu cầu về
dịch vụ tại địa phương, từ nhu cầu sửa chữa ống nước cho đến nhu cầu mua
dâm.
Thêm
vào hoạt cảnh vừa kể một bên là việc canh tác nhỏ lẻ trên thửa đất gia
đình của nông dân, và một bên là các xí nghiệp tư, hoạt động được nhờ
công nhân tuồn nguyên liệu từ xí nghiệp nhà nước (gạch, dây đồng, chữ
đúc…) rồi phù phép “chuyển đổi” cho sản xuất riêng, thì có được bức
tranh tổng thể về chủ nghĩa cộng sản kiểu Xô-viết – rất gần với chủ
nghĩa tư bản Ý – tức là chỉ tồn tại được nhờ nền kinh tế ngoài luồng.[iii] Đây
là một mối quan hệ cộng sinh: nhà nước cộng sản chỉ duy trì được sự độc
quyền trong khu vực công bằng cách chuyển qua khu vực tư tất cả những
hoạt động và nhu cầu mà nhà nước không thể phủ nhận hay đáp ứng; trong
khi đó, nền kinh tế ngoài luồng lại lệ thuộc vào khu vực công để có
nguyên liệu, và cần hơn nữa chính là nhờ khu vực công bất lực nên khu
vực tư mới có một thị trường béo bở, với những giá trị và lợi nhuận thổi
phồng.
Ít con, nhiều rượu, chóng chết
Nền
kinh tế tù đọng chính là lời nguyền rủa vận vào chủ nghĩa cộng sản vốn
cho rằng mình hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Và nếu không là chất xúc tác cho
hành vi đối lập, thì nền kinh tế kia cũng là nguồn gốc tạo nên bất mãn.
Với hầu hết người dân dưới chế độ cộng sản thời Brezhnev, từ cuối thập
niên 1960 đến đầu thập niên 1980, cuộc sống tuy không đậm màu sợ hãi hay
đàn áp nhưng lại là những chuỗi ngày xám xịt và buồn tẻ. Các cặp vợ
chồng ngày càng sinh ít con hơn, nhưng họ lại rượu chè nhiều hơn – lượng
rượu tiêu thụ tính theo đầu người tại Liên Xô tăng bốn lần trong những
năm này – và chết sớm hơn. Những khu nhà tập thể trong các xã hội cộng
sản không chỉ xấu xí về mỹ thuật, mà còn tồi tệ về chất lượng và gây khó
chịu khi sử dụng. Nói cách khác, nhà tập thể nhếch nhác là chiếc bóng
của nhà nước toàn trị tồi tệ đã tạo ra nó. Một tài xế taxi ở Budapest có
lần vừa chỉ tay về những dãy nhà tập thể cao tầng ẩm thấp, bẩn thỉu,
nằm xấu xí ở ngoại ô thành phố, vừa nói với người viết rằng: “Chúng tôi
sống ở đó, trong mấy cái nhà đúng kiểu cộng sản kia kìa – hè thì nó
nóng, đông thì nó rét.”
Như
mọi thứ khác trong khối Xô-viết, nhà tập thể thường có giá rẻ (giá thuê
trung bình khoảng 4% thu nhập một gia đình bình thường ở Liên Xô), cũng
vì nền kinh tế không do giá cả mà do sự khan hiếm điều phối. Điều này
có lợi cho nhà cầm quyền – việc phân phối độc quyền những mặt hàng luôn
khan hiếm giúp duy trì sự thúc thủ của quần chúng – nhưng cũng chứa một
rủi ro nghiêm trọng mà hầu hết giới lãnh đạo cộng sản đều hiểu rất rõ.
Đến cuối thập niên 1960, khi mọi sự đã rành rành là những hứa hẹn về một
tương lai “xã hội chủ nghĩa” rạng rỡ không đủ sức dụ dỗ dân chúng trung
thành với chế độ nữa, các nhà lãnh đạo cộng sản đã đổi chiều, xem dân
chúng như những người tiêu dùng và tìm cách thay thế xã hội không tưởng
(xã hội chủ nghĩa) của ngày mai bằng những sung túc vật chất của ngày
hôm nay.
Sao cũng được
Đó
là chọn lựa rất có tính toán. Vasil Bil’ak, nhân vật bảo thủ có công
cõng rắn cắn gà nhà đưa quân Xô-viết xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968, trong
lần phát biểu với Ban Tuyên giáo Đảng vào tháng Mười 1970 đã nói rằng:
“Lúc đó (năm 1948), ta treo tranh cổ động ở cửa hiệu vẽ vời chủ nghĩa xã
hội sẽ đẹp đẽ ra sao và quần chúng cứ thế tin như in. Nhưng đó là cơn
lên đồng của một thời xưa rồi. Bây giờ, không thể cứ treo bánh vẽ nói về
chủ nghĩa xã hội sau này nữa mà cửa hàng hôm nay phải chứa cho đầy
hàng, để ta ghi vào thành tích là ta đang tiến tới chủ nghĩa xã hội, là
ta đang có chủ nghĩa xã hội ngay tại đây.”[iv]
Rõ
ràng nhà nước đã làm điều ngược ngạo là cố khuyến khích dân chúng xem
chủ nghĩa tiêu thụ như thước đo thành công của chủ nghĩa xã hội. Điều
này dĩ nhiên khác hẳn với nội dung của “cuộc tranh luận trong bếp” đình
đám giữa Tổng Bí thư Liên Xô Khrushchev với Phó Tổng thống Mỹ Nixon vào
năm 1959, khi Khrushchev nói với Nixon rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ qua
mặt chủ nghĩa tư bản chẳng trong bao lâu nữa. Bil’ak – cũng như Kádár
tại Hungary – không ảo tưởng như vị Tổng Bí thư kia. Ông hài lòng chấp
nhận chủ nghĩa cộng sản là một bản sao mờ nhạt của chủ nghĩa tư bản,
chừng nào có đủ hàng hóa làm người tiêu dùng hài lòng. Erich Honecker
tại Đông Đức – lên làm lãnh tụ năm 1971, thay thế Walter Ulbrich, kẻ ra
đi không ai thương tiếc – cũng vậy, ông chỉ hứa hẹn mang lại cho dân
Đông Đức một phiên bản thu gọn của “phép lạ” kinh tế diễn ra tại Tây Đức
vào thập niên 1950.
Phồn vinh giả, mệt thật
Chiến
lược này thành công vừa phải trong một thời gian. Mức sống tại Tiệp
Khắc, Hungary và Ba Lan được cải thiện trong thập niên 1970, ít nhất là
khi đo bằng mức tiêu thụ hàng hóa bán lẻ. Số xe hơi và tivi, hai mặt
hàng tiêu dùng tiêu biểu của thời kỳ này, tăng lên đều đặn: tại Ba Lan,
số xe hơi tư nhân, tính bình quân đầu người trên toàn dân số, tăng bốn
lần từ 1975 đến 1989. Đến cuối thập niên 1980 tại Hungary, trung bình cứ
10 người thì có 4 chiếc tivi; ở Tiệp Khắc cũng có số tương tự. Nếu
người mua chấp nhận chất lượng kém, kiểu dáng nghèo nàn và không nhiều
chọn lựa, họ có thể tìm được những gì mình muốn, không có ở cửa hàng nhà
nước thì ra chợ đen. Tuy nhiên, ở Liên Xô, hàng hóa “ngoài luồng” khó
tìm và tương đối đắt đỏ hơn.
Với
nhu yếu phẩm, tình trạng cũng vậy. Vào tháng Ba 1989, một người tiêu
thụ tiêu biểu ở Washington DC sẽ cần làm việc 12,5 giờ để mua một giỏ
hàng nhu yếu phẩm chuẩn (gồm xúc-xích, sữa, trứng, khoai tây, rau củ,
trà, bia,…). Một giỏ hàng tương tự sẽ tốn 21,4 giờ làm việc tại London,
nhưng lại ngốn tới 42,3 giờ làm việc tại Moscow, mặc dù nhà nước đã trợ
giá rất nhiều.[v] Chưa
hết, người tiêu thụ ở Liên Xô và Đông Âu còn phải tốn nhiều thời giờ để
tìm kiếm, chờ đợi mua thức ăn và những mặt hàng khác. Nếu không đo bằng
đồng rúp [Nga], đồng crown [Tiệp Khắc] hay đồng forint [Hungary], mà đo
bằng thời gian và công sức, thì có thể thấy đời sống dưới chế độ cộng
sản vừa đắt đỏ vừa mệt mỏi.
Việc
định nghĩa thành công của chủ nghĩa cộng sản bằng khả năng thỏa mãn nhu
cầu cá nhân của người tiêu dùng cũng không dễ dàng, vì như trình bày ở
trên, toàn bộ nền kinh tế đã được cài đặt để sản xuất lớn máy móc công
nghiệp và nguyên liệu thô. Ngoại trừ thức ăn, các nền kinh tế cộng sản
đã không sản xuất ra được những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn
(ngay sản xuất thức ăn họ cũng không hiệu quả bao nhiêu – Liên Xô từ lâu
đã trở thành nướcnhập khẩu gạo, đưa tổng số thực phẩm nhập khẩu tăng
lên ba lần từ năm 1970 đến 1982). Cách duy nhất vượt qua trở ngại này là
nhập khẩu hàng tiêu dùng từ nước ngoài, nhưng phải trả bằng tiền theo
giá thị trường. Tiền chỉ có nhờ xuất khẩu, nhưng, ngoại trừ Liên Xô có
dầu hỏa, thị trường thế giới chẳng quan tâm gì đến sản phẩm của khối xã
hội chủ nghĩa, trừ khi chúng được bán với giá rẻ bèo, nhưng ngay cả khi
bán với giá bèo, vẫn có trường hợp không ai mua. Cách thực tế nhất, cách
duy nhất để các cửa hiệu có đủ hàng hóa cho người tiêu dùng tại phương
Đông là vay tiền từ phương Tây.
Tư sản nuôi vô sản
Phương
Tây đương nhiên sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng
Thế giới và những ngân hàng tư nhân đều rất vui lòng cho các nước khối
Xô-viết vay tiền, vì lý do: Hồng quân Liên Xô là bảo chứng đáng tin cậy
cho ổn định lâu dài, thêm vào đó, quan chức cộng sản cũng đã biến hóa
các số liệu về năng suất và tài nguyên nghe rất thuyết phục.[vi] Chỉ
tính trong thập niên 1970, nợ nước ngoài của Tiệp Khắc đã tăng lên 12
lần. Tại Ba Lan, nợ nước ngoài tăng đến 3000% sau khi Tổng Bí thư Gierek
và tay chân cho nhập ào ạt hàng hóa được trợ giá từ phương Tây, cùng
lúc thực hiện các chương trình bảo hiểm xã hội mới rất tốn kém dành cho
nông dân, và cho kềm giá thực phẩm ở mức giá năm 1965.
Thật
khó lòng kiểm soát khi nợ lên đến mức vừa kể. Năm 1976, Gierek cho tăng
giá thực phẩm tại Ba Lan thì bạo loạn giận dữ đã nổ ra nhưng lập tức bị
dẹp tan, và chế độ đã không còn con đường nào khác ngoài tiếp tục vay
mượn: từ năm 1977 đến 1980, 1/3 tiền Ba Lan vay từ nước ngoài được dùng
để trợ giá cho hàng tiêu dùng trong nước. Các kinh tế gia cộng sản tại
Praha, Tiệp Khắc, cũng khuyến cáo nên bỏ dần bao cấp và chấp nhận giá
“thật”, nhưng các lãnh tụ chính trị của họ sợ hậu quả khó lường của biện
pháp này nên cũng chỉ chọn cách vay mượn nhiều hơn nữa. Và, tương tự
như những năm giữa hai thế chiến, lại một lần nữa các quốc gia nhỏ và dễ
vỡ tại Đông Âu phải vay vốn từ phương Tây để vực dậy nền kinh tế tự
cấp, và cũng để tránh né những chọn lựa còn khó khăn hơn nhiều.
Ngập nợ
Miklós
Németh, thủ tướng cộng sản cuối cùng của Hungary, vài năm sau đó cũng
phải công nhận những điều vừa kể. Khoản vay một tỉ Đức-mã từ Bonn, được
chấp thuận vào tháng Mười 1987 và được các chính khách Tây Đức mô tả như
một đóng góp cho công cuộc “cải cách” kinh tế của Hungary, thực ra đã
không được dùng để cải cách kinh tế. Németh công nhận: “chúng tôi dùng
2/3 số tiền này để trả lãi, và phần còn lại dùng để nhập thêm hàng tiêu
dùng, cho khủng hoảng kinh tế nhìn bớt xấu xí.” Năm 1986, thâm thủng
thương mạicủa Hungary được nhà nước công bố là 1,4 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm.
Từ 1971 đến 1980, nợ nước ngoài của Ba Lan đã tăng từ 1 tỉ lên 20,5 tỉ
đô-la Mỹ, và sau đó còn lên cao hơn nữa. Chính Đông Đức cũng tự nhận
rằng trong những năm cuối cùng của chế độ họ đã dùng trên 60% tiền lãi
nhờ suất khẩu hàng năm để trả lãi tiền vay của phương Tây (dù lãi suất
đã được phương Tây cắt giảm rất hào phóng). Yugoslavia, một khách hàng
thường được chiều chuộng (từ 1950 đến 1964, Mỹ đã bao trả đến 3/5 thâm
thủng hàng năm của Belgrade) thì luôn nhận được những khoản cho vay rộng
rãi và những cam kết hỗ trợ tức thời, tất cả đều dựa trên những số liệu
khống, không có bất cứ liên hệ gì với thực tế.
Gộp
chung, nợ nước ngoài của Đông Âu ở mức 6,1 tỉ năm 1971, đã tăng lên
66,1 tỉ vào năm 1980, và lên tới 95,6 tỉ đô-la Mỹ vào năm 1988[vii].
Con số vừa kể không bao gồm số liệu từ Rumani – vì Ceaușescu đã trả hết
nợ vay nước ngoài nhờ đè đầu cỡi cổ vắt kiệt dân nước mình trong nhiều
năm trời; con số cũng có thể cao hơn nếu Hungary không có những nhượng
bộ về giá cả trong thập niên 1970. Nhưng ý nghĩa của tình trạng này thật
rõ ràng: hệ thống cộng sản không chỉ vay tiền để sống, mà còn vay mượn
cả thời gian. Không sớm thì muộn, chế độ cần phải thực hiện những điều
chỉnh kinh tế, tuy sẽ đau đớn và làm xáo trộn xã hội.
Không thể sửa
Nhiều
năm sau này, ông Markus Wolf, trùm gián điệp Đông Đức, có thể tự hào
rằng vào cuối thập niên 1970, mình là người dám khẳng định Đông Đức đã
“hỏng rồi”. Cũng không chỉ mình Wolf thấy điều này. Những nhà kinh tế
như Tamás Bauer tại Hungary, và đồng nghiệp Ba Lan Leszek Balcerowicz,
cũng rất hiểu tòa nhà cộng sản xây trên cát đang lung lay đến mức nào.
Nhưng, chừng nào những nhà tư bản còn bảo kê nó, thì chủ nghĩa cộng sản
vẫn tồn tại. “Thời kỳ trì trệ” (nói theo Gorbachev) dưới triều Leonid
Brezhnev đã tạo ra rất nhiều ảo tưởng, và không chỉ là trong các nước
cộng sản. Năm 1978, khi Báo cáo của Ngân hàng Thế giới khẳng định rằng
Đông Đức có mức sống cao hơn cả Anh Quốc, thì có lẽ cả thằng Cuội trên
cung trăng cũng phải lăn ra cười sặc sụa.[viii]
Nhưng,
những người cộng sản hiểu nhiều điều mà các nhà tài chính ngân hàng
phương Tây không tưởng tượng được. Cải cách kinh tế trong khối Xô-viết
không phải là bị trì hoãn, mà là không thể được. Như Amalrik dự đoán
trong cuốn Liệu Liên Xô có tồn tại đến năm 1984?, giới lãnh đạo cộng sản
“thấy chế độ hiện tại tệ hại, nhưng vẫn đỡ tệ hại hơn là phải đau đớn
thay đổi nó.” Cải cách kinh tế, dù chỉ là những điều chỉnh cục bộ nhất,
mang lại hiệu quả nhỏ nhất, cũng sẽ đứt dây động rừng, có ảnh hưởng
chính trị lập tức. Những sắp xếp kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tạo
ra những khu vực độc lập mà đan xen chằng chịt vào nhau tạo thành cả một
hệ thống chính trị.
Không
phải vô tình mà các nước chư hầu Liên Xô tại Đông Âu đều được cai trị
bởi những ông trùm già, bảo thủ và cơ hội. Vào thời đại mới của chủ
nghĩa thực dụng, những vị như Edward Gierek ở Warsaw (sinh 1913), Gustáv
Husák ở Praha (sinh 1913), Erich Honecker ở Bá Linh (sinh 1912), János
Kádár ở Budapest (sinh 1912) và Todor Zhivkov ở Sofia (sinh 1911) – chưa
kể các vị Enver Hoxha ở Tirana (sinh 1908), và Josip Broz Tito ở
Belgrade (sinh 1892) – đều là những vị có tính thực tế ở mức thượng
thừa. Giống như Leonid Brezhnev – sinh 1906, bảy lần nhận Huân chương
Lênin, bốn lần nhận danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết, đoạt Giải Hòa
bình Lenin, Tổng Bí thư, và từ 1977 kiêm luôn Chủ tịch Nước – các ông
trùm này cũng chỉ già đi theo kiểu rất thường dân: Họ không có động cơ
gì để tự làm khổ mình, ngược lại, họ có đủ ham muốn để được chết trên
chiếc giường hiện có. [ix]
Chưa thể sụp
Mặc
dù “chủ nghĩa xã hội trên thực tế” đã chứng tỏ sự bất lực và mất uy tín
toàn diện nhưng điều này vẫn chưa làm chế độ sụp đổ. Aleksandr
Solzhenitsyn, trong diễn văn nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1971 (diễn văn
được đọc thay, vì ông vắng mặt), nói một cách hùng hồn rằng “một khi
dối trá bị lật tẩy, bạo lực trần trụi sẽ lộ nguyên bộ mặt thô bỉ của nó,
và rồi bạo lực, khi ấy đã đuối sức, sẽ sụp đổ tan tành.” Nhưng nhận
định này đã không hẳn đúng. Sự trần trụi của bạo lực Xô-viết đã hiện
nguyên hình từ rất lâu – và còn bị phơi trần lần nữa trong cuộc xâm lăng
đầy thảm họa vào Afghanistan năm 1979 – bên cạnh đó, những dối trá của
chủ nghĩa cộng sản cũng đã từng bước bại lộ và được giải mã vào những
năm sau biến cố 1968.
Tuy
vậy, chế độ cộng sản vẫn chưa sụp đổ. Có thể nói, đóng góp nổi bật của
Lenin cho lịch sử Châu Âu là ông đã bắt cóc tinh thần cấp tiến của châu
Âu, vốn có tính chia rẽ ly tâm, và biến nó thành một thứ quyền lực chính
trị với một hệ thống kiểm soát độc quyền rất sáng tạo: thu gom thô bạo
mọi quyền hành về một mối và dùng bạo lực quyết liệt để duy trì nó tại
một chỗ. Hệ thống cộng sản có thể bị bào mòn vô hạn định ở ngoại vi
[Đông Âu], nhưng yếu tố khiến nó cuối cùng sụp đổ chỉ có thể đến từ
trung tâm của quyền lực [Moscow]. Trong câu chuyện về ngày tàn của chủ
nghĩa cộng sản, những hoạt động đối lập mới, nở rộ trong giới trí thức
tại Praha và Warsaw, có thể xem là đoạn kết cho một khởi đầu mới. Còn
nhân tố lãnh đạo vừa xuất hiện tại Moscow mới chính là khởi đầu cho đoạn
kết.[x]
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 577-584. Tựa và tiêu đề là của người dịch.
[i] Suốt
thập niên 1980, Ba Lan và Tiệp Khắc rơi vào tình trạng suy thoái trầm
trọng (“tăng trưởng” âm) – nền kinh tế các nước này thu nhỏ lại. Nền
kinh tế của chính Liên Xô cũng đã co cụm lại từ năm 1979. (TG)
[ii] Timothy Garton Ash, The Uses of Adversity (NY, 1989), trang 9. (TG)
[iii] Trong
nông nghiệp, phần lớn Liên Xô, Hungary, Rumani một lần nữa lại gợi nhớ
tới tình trạng các đại trang trại vào thế kỷ 19: giới lao động nông
nghiệp bị trả lương bèo bọt, làm việc cầm chừng, thiếu thốn dụng cụ nên
chỉ làm tối thiểu cho những ông chủ vắng mặt, còn để dành sức cho công
việc thật tại các thửa đất riêng của gia đình. (TG)
[iv] Xin cảm ơn Tiến sĩ Paulina về trích dẫn này. (TG)
[v] Dưới
thời Brezhnev, một pound (khoảng nửa ký) thịt bò tốn 3,5 rúp để sản
xuất nhưng chỉ được bán với giá 2 rúp. Cộng đồng Châu Âu cũng trợ giá
cho người chăn nuôi, với tỉ lệ gần như tương tự. Sự khác biệt nằm ở chỗ
Tây Âu có Chính sách Nông nghiệp Chung, trong khi Liên Xô thì không.
(TG)
[vi] Hungary
gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 1982, cả hai đều phấn khích chúc
mừng nhau. Chỉ đến năm 1989, người ta mới biết chính quyền Hungary đã
cố tình hạ rất thấp mức nợ trong và ngoài nước của thập niên trước đó.
(TG)
[vii] Jeffrey
D. Sachs, cố vấn kinh tế của chính phủ Ba Lan hậu cộng sản và nhiều
nước trên thế giới, chủ trương rằng: Kinh tế các nước hậu cộng sản sẽ
khó lòng phục hồi nếu cứ phải trả các khoản nợ do chế độ cũ để lại. Với
nỗ lực vận động và tư vấn của Sachs, Thủ tướng Đức Helmut Kohl đã giúp
xóa 50% nợ cho Ba Lan, tương đương 15 tỉ đô-la Mỹ, vào đầu thập niên
1990. Lý do để Thủ tướng Kohl thay đổi, từ phản đối qua đồng ý xóa nợ,
là vì nước Đức cũng từng được đồng minh xóa những khoản nợ vay trước Thế
chiến II. Chuyện xóa nợ được kể lại trong Chương “Poland’s Return to
Europe” (Ba Lan trở về với Châu Âu) trong cuốn The End of Poverty (Chấm
dứt nghèo đói), của Jeffrey D. Sachs, NXB Penguine Books, 2006. (ND)
[viii] Nguyên
văn “Prince Potemkin must surely have smiled in his far-off grave”
(Hoàng thân Potemkin có nằm trong mộ ở nơi xa lắc cũng phải mỉm cười).
Potemkin (1739-1791) – nhà quý tộc, chính khách, nhà quân sự Nga, được
phong tước Hoàng thân Đế quốc Nga – được nhắc đến ở đây như một kẻ phỉnh
phờ, do giai thoại ông cho xây một ngôi làng giả tạo nhưng đẹp đẽ để
gây ấn tượng khi Nữ hoàng Catherine II đến thăm. (ND)
[ix] Hơn
nữa, cũng như Brezhnev, các vị này là những người tiêu dùng hàng đầu
của thời đại họ đang sống. Một truyện tiếu lâm Xô-viết cùng thời kể
rằng: Vị lãnh tụ Liên Xô một hôm khoe với mẹ cácdacha [nhà nghỉ dưỡng ở
đồng quê], biệt đội xe hơi, và các dãy nhà lưu trú mùa săn bắn của mình.
Mẹ lãnh tụ khen: “Tuyệt đấy, Leonid!” Nhưng rồi bà lại lo: “Nhưng nếu
bọn cộng sản trở lại nắm quyền thì sao con?” (TG)
[x] Tony
Judt viết đoạn cuối này để dẫn nhập vào Chương 19 “The End of the Old
Order” (Kết thúc trật tự cũ), chương nói về những yếu tố khác dẫn đến sự
sụp đổ của cộng sản, trong đó nổi bật là vai trò của Gorbachev, vai trò
của Giáo hoàng John Paul II, Công đoàn Đoàn kết, vụ Liên Xô sa lầy ở
Afghanistan (khiến sau đó Liên Xô phải bỏ hẳn chủ trương xua quân sang
Đông Âu, dù để cứu các chế độ chư hầu đang lâm nguy), thảm họa nhà máy
điện hạt nhân Chernobyl, những biến chuyển ở Kremlin, phản ứng của
phương Tây… Chương 19 cũng nói về diễn tiến cách mạng 1989 tại các nước
Đông Âu, trước khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô năm 1991. (ND)