Tưởng Năng Tiến      

Trước một thông tin, trước một tác phẩm, một bài viết, một cây 
bút, một góp bàn phản biện, chỉ được phép dùng chính phương cách truyền 
thông “tham chiến”, chứ không được phép dùng đến cái còng số 8, nòng 
súng và nhà giam.  - Trương Duy Nhất
Sau quyết định (“Nghỉ Báo Viết Blog”) của Trương Duy Nhất, có độc giả “bình” rằng đây là một “cáo phó” cho báo bổ thời bao cấp. Ông Mặc Lâm thì mô tả hành động này như là một phương cách “thoát khỏi vòng kim cô” của nhà báo nổi tiếng này.
Trương Duy Nhất, nói nào ngay, không phải là người đầu tiên có quyết định ngon lành như thế. Hơn nửa thế kỷ trước, Nguyên Hồng còn tuyên bố một câu (ngon) hơn thế:
- “Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa.”
Ấy thế nhưng chả bao lâu sau, vẫn theo lời kể của Tô Hoài: 
“Hội Nhà văn Đức tặng Hội Nhà văn Việt Nam 200 cái xe đạp Diamant 
mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. Ấy là việc dắt 
chiếc xe đạp đứng vườn hoa Cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô 
tuyến truyền hình của Việt, của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng 
phẩm hữu nghị quốc tế.
Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương 
Đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe
 nào. Hai trăm cái xe lăn cả vào kho Bộ Thương nghiệp.” (Tô Hoài. Cát Bụi Chân Ai. Wesminster, CA: Hồng Lĩnh, 1993.)
Tôi nghe nói, Bộ Thương Nghiệp, vào thời điểm vàng son của nó, 
quản  luôn cả đến cây kim và sợi chỉ nữa cơ. Nhờ thế, nhà nước cột 
chặt được tất cả mọi người, không xót một ai.  Muốn “đéo chơi” (với 
chúng nó) nữa cũng chả phải là chuyện dễ dàng gì.
Cái thời hoàng kim (thổ tả) đó, của chúng nó, may quá, đã qua. Bây giờ, cả ông hai ông Hữu Thỉnh và Đinh Thế Huynh dù có tam cố thảo lư,
 và khiêng đủ “200 chiếc xe đạp Diamont mới cứng” đến tận nhà (chắc) 
cũng không cách chi thuyết phục được Trương Duy Nhất trở lại cái “Hợp 
Tác Xã Tư Tưởng” của nhà nước nữa.
Nhất đã đi rồi.
“Hợp Tác Xã Tư Tưởng” là chữ dùng (riêng) của Trương Duy Nhất để mô
 tả những sinh hoạt có liên quan đến sách báo thời bao cấp. Cái thời 
mà blogger Đào Tuấn đặt tên, một cách (vô cùng) lãng mạn, là “Thời Đại Buông Rèm.” Tôi vốn sính Tây nên gọi cái thứ của nợ này là một loại ghetto, dành cho những người cầm viết, ở Việt Nam.
Trong Thế Chiến Thứ II, ghettos được Đức Quốc Xã tạo nên (ở nhiều thành phố Đông Âu) để làm nơi tập trung người Do Thái. Với thời gian, hạn từ ghetto
 được phổ biến theo một nghĩa  rộng rãi hơn – để chỉ những nơi 
biệt cư, thường là nghèo nàn và chật hẹp, của một nhóm người (nào đó)
 trong lòng phố thị:Black Ghetto, Mexican Ghetto, Chinese Ghetto, 
Student Ghetto, Gay Ghetto...
Từ hơn nửa thế kỷ qua, nhà đương cuộc Hà Nội cũng thiết lập một loại ghetto
 bẩn chật (tương tự) để làm nơi quần tụ cho những người cầm viết. 
Kẻ nào lỡ bước qua (hay bị đẩy ra) khỏi lằn ranh của cái ghetto văn hoá này là sẽ bị rơi ngay vào “bước đường cùng” – theo như (nguyên văn) lời của Bùi Ngọc Tấn:
“Có một ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh 
hơn văn bản mà tất cả các báo, các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt 
để và nghiêm chỉnh là không in bài của Mặc Lân, Lê Bầu. Nếu hạn hữu có 
in cũng không được ký tên hai người… không được in đã hẳn, nhuận bút 
cũng không có nốt.
Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu 
sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại
 là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu…
Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn 
tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu 
phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng 
tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui…
Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi 
nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những 
cái tên bất ngờ nhất:
Chính Yên!
Phan Kế Bảo!
…..
Phương Nam!
Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn 
nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. 
Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về bè bạn. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006.)
Và đến “bước đường cùng” thì mới thấm thía hương vị của một tô phở, 
cho dù là phở quốc doanh. Nó có thể làm cho khách qua đường phải ứa 
nước miếng, và (đôi khi)… nước mắt:
“Ngày ấy từ quê ra đèo nhau qua hiệu phở, ngửi mùi thơm ngào ngạt,
 quyến rũ, hai vợ chồng cùng thấy đói, thấy thèm và bảo nhau vào ăn phở.
 Nhưng khi lục túi chỉ còn ba trăm. Đúng một bát phở chín. Không hơn. Ai
 ăn? Bà bảo ông ăn vì trông ông gầy quá. Ông bảo bà ăn. Bà bảo thế thì 
không ai ăn cả. Cùng về. Nhưng ông biết bà đã nhịn thèm nhịn nhạt, 
nhường chồng con bao nhiêu năm rồi. Ông quát lên khe khẽ, bắt bà phải 
ăn. Bà vâng lời ông. Ông còn dặn bà: Nửa bát đầu cứ thế ăn, nửa bát sau 
hãy cho chanh ớt. Như vậy em được ăn hai thứ phở.” (Bùi Ngọc Tấn. Vũ trụ không cùng. Fall Church,Virginia: Tiếng Quê Hương, 2007).

Tranh Babui.
Ở trong vòng ghetto, tuy bẩn chật nhưng được cái an toàn. Nó an toàn đến độ khiến không ít kẻ sinh tật múa gậy vườn hoang – theo như lời than phiền của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, về một cây viết và một tờ báo tăm tiếng (và tai tiếng) nhất hiện nay:
“Vì sao Nguyễn Như Phong và báo An Ninh Thế Giới dám tự tung 
tự tác, ngang nhiên hoành hành, đổi trắng thay đen, ngậm máu phun người 
như vậy? “
An Ninh Thế Giới không phải là tờ báo duy nhất chuyên ngậm máu 
(hay ngậm cứt) phun ngườinhư thế. Ngày 31 tháng 10 năm 2009, qua một 
bài báo (“Bán dâu - Hủ tục man rợ vẫn hoành hành”)
 tờ Tiền Phong cũng đã ngang hiên xỉ nhục người dân ở huyện Tiên Yên, 
tỉnh Quảng Ninh, về điều mà họ mô tả là “tập tục vô luân” nơi địa 
phương này: ”Thích thì bỏ tiền cưới vợ, khi ‘bực mình’ thì rao bán cả vợ cả con, bố mẹ chồng cũng có quyền bán con dâu và cháu nội…”
Một tuần sau, cũng báo Tiền Phong, số ra ngày 8 tháng 11, đăng lời “xin lỗi nhân dân và chính quyền xã Phong Dụ cùng bạn đọc...” vì “tác giả bài báo đã xào xáo và không hiểu biết gì về tập tụcvà đời sống bà con đồngbào dân tộc, thêm thắt, thổi phồng sự việc...”
Xin lỗi quấy quá, cho có lệ vậy thôi, chứ “đổi trắng thay đen” hay “thêm thắt, thổi phồng sự việc” để phỉ báng thiên hạ – đối với những người cầm viết trong ghetto
 Việt Nam – chỉ là chuyện nhỏ, không đáng để họ phải bận tâm. Họ còn
 được dung túng để thay mặt cho cả ngành tư pháp của xứ sở này kết án 
hết người này, đến người nọ về tội danh này hay tội danh khác nữa 
cơ.
Qua một cuộc phỏng vấn, do Lê Thị Thái Hoà thực hiện, đọc được ở Thanh Niên Online vào ngày 30 tháng 4 năm 2008, nhà văn Trần Đăng Khoa cho biết:
”Tôi nói thật, chưa bao giờ tôi viết có xúc cảm hết. Thời trẻ con
 cũng thế và sau này cũng vậy. Thấy cần viết là tôi viết. Họ đặt ký tôi 
viết về người này người kia thì tôi viết. Thế là có tập Chân dung và Đối thoại đấy. » 
“Thế ... đấy” nhưng tập Chân Dung Và Đối Thoại vẫn được tái bản đều đều. Lý do: ghetto chữ nghĩa
 ở VN là một loại công ty độc quyền, không có đối thủ, miễn có cạnh
 tranh, và thường kín như bưng. Bởi vậy, khi Trần Đăng Khoa hé mở cho 
chút xíu ánh sáng (sự thật) soi rọi vào một vài mảng tối thui ở đất 
nước này là tác phẩm của ông liền được đón chào nhiệt liệt.
Dù thế, chỉ hơn một năm sau, qua một cuộc phỏng vấn khác – đọc được vào hôm 13 tháng 7 năm 2009, do Hồng Thanh Quang
 thực hiện – Trần Đăng Khoa đã nói khác ngay. Ông không đề cập đến 
chuyện “viết không cần cảm xúc” hay “viết theo đơn đặt” nữa. Thay vào 
đó, ông nêu lên“thiên chức của nhà văn” bằng những lời lẽ hết sức trang trọng và cảm động:
“Bởi vì ở Phương Đông cũng như ở Việt Nam, văn chương đích thực, 
phải tải Đạo, như cụ Đồ Chiểu nói: Chở bao nhiêu Đạo, thuyền không khẳm.
 Vì thế, trong con mắt của xã hội, nhà văn là cao quí, là đại diện cho 
giá trị đạo đức và văn hoá xã hội.”
Cảm ơn Trần Đăng Khoa, và cảm ơn Trời. Thế thời, rõ ràng, đã đổi. 
Và đổi nhanh ngoài sức tưởng tượng của tất cả mọi người. Mới bữa nào 
người dân Việt còn thi thoảng uống cà phê chui, nay thì họ ngồi đầy những tiệm cà phê internet.
Cái phương tiện truyền thông (tân kỳ) này đã làm cho quả địa cầu 
nhỏ lại. Nhân loại nhích lại gần nhau hơn. Việt Nam không còn là một 
nơi biệt cư, dành riêng cho một dân tộc hoàn toàn mù thông tin, như 
trước nữa. Bây giờ mà vẫn cứ “viết theo đơn đặt hàng” thì rách việc 
như không. Và điều này thì Trương Duy Nhất biết rõ hơn rất nhiều 
người.
Cuối bài “Viện Sĩ Tự Sướng” (viết ngày 4 tháng 2 năm 2011) ông cho biết: “Tôi
 post bài này lên lúc 14 giờ 57, xong đi một vòng chúc Tết. Chưa đầy 2 
tiếng sau về mở lại thì thấy báo Nhân Dân đã tháo bài này xuống khỏi 
trang Nhân Dân điện tử.”
Trước đó không lâu, báo Pháp Luật cũng bị một tai nạn tương tự vì bài báo “Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Xuất Sắc Nhất Châu Á” của ông hay bà Phượng Lê nào đó. Nó cũng được “tháo xuống” tức thì.
Hệ thống truyền thông quốc doanh, rõ ràng, không còn là nơi để có thể múa gậy vườn hoang (như xưa) nữa. Dù nấp dưới bút danh nào, và trong ngõ ngách nào chăng nữa, hễ cứ nói bậy hay nói láo là bị chúng “vả” vào mồm – khiến mặt mũi sưng vù – ngay tức khắc.
Cái ghetto chữ nghĩa Việt Nam bây giờ, ví von mà nói, là một con 
thuyền lủng. Nó sắp đắm đến nơi. Bởi thế, khi Trương Duy Nhất tuyên 
bố “bỏ thuyền” thì ai cũng lấy làm mừng. Đây là một tin vui. Một 
người ngay thoát nạn!
Nhất đã đi rồi!
Tưởng là đi đâu, ai dè ổng đi... vô hộp, theo như tin loan của Thanh Niên On Line, đọc được vào hôm 26 tháng 5 năm 2013:
“Bộ Công an vừa tiến hành bắt giữ ông Trương Duy Nhất (49 tuổi, 
ngụ tại TP.Đà Nẵng) về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm 
phạm lợi ích của Nhà nước Việt Nam, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
 công dân theo điều 258, Bộ luật Hình sự.”
Nguyên Hồng, rõ ràng, vẫn may mắn hơn Trương Duy Nhất. Thời của 
ông nhà văn ở miền Bắc Việt Nam ngày trước – nói nào ngay – cửa tù 
không mở rộng (hết cỡ) như thời của ông nhà báo hôm nay, trên toàn 
lãnh thổ. Bởi vậy, nhiều người cầm bút ở Việt Nam đã chọn cuộc 
sống trong ghetto (được lúc nào hay lúc đó) thay vì ở trong tù. Cái 
trước, khách quan mà xét, vẫn rộng rãi thoải mái hơn cái sau  nhiều 
lắm. Thiệt đúng là một xứ sở chỉ có một góc nhìn duy nhất!
 
