Trần Ngân       
              
 
        
    
    
Vài năm trở lại đây, tình hình tham nhũng, chạy chức, chạy quyền ở 
Việt Nam ngày càng tăng, cộng với kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao, 
thất nghiệp lan rộng đã đe dọa nghiêm trọng tới niềm tin của người dân 
vào vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tình thế đó đã buộc ban lãnh đạo
 Đảng phải tìm ra những giải pháp mới nhằm lấy lại niềm tin của nhân 
dân. Từ khi lên nắm quyền sau Đại hội Đảng lần thứ 11, TBT Trọng và Ban 
chấp hành TW Đảng đã tiến hành một số biện pháp như:
  -  Ra Nghị quyết Trung ương 4 về “Những vấn đề cấp bách xây dựng 
Đảng hiện nay” và tổ chức rộng khắp phong trào phê và tự phê theo tinh 
thần nghị quyết này
  -  Tái lập Ban Nội chính TW và Ban Kinh tế TW
  Bài viết dưới đây sẽ phân tích ý nghĩa của việc tái lập 2 ban này trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.  
1. Về Ban nội chính và cuộc chiến chống tham nhũng

  Vào năm 2007, Ban Nội chính TW lúc đó đã được sáp nhập vào Văn 
phòng TW Đảng. Sau khi được tái lập vào cuối năm 2012, chức năng, nhiệm 
vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đó. 
Nếu như trước đây, nhiệm vụ của Ban rất rộng, chẳng hạn:  
  -  Giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên 
lĩnh vực xây dựng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
  -  Nghiên cứu đề xuất và theo dõi việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành pháp luật nhà nước;  
  -  Theo dõi việc lập và thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Nhà nước.    (thuvienphapluat.vn)
  thì trong 6 nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đều có chữ “tham nhũng” (Vnexpress, 4/1/2013). Điều này cho thấy Ban này được lập ra chủ yếu để đối phó với tình trạng tham nhũng tràn lan hiện nay. 
  Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: liệu việc tái lập lại Ban này có giúp
 được gì trong việc giảm bớt tình trạng tham nhũng hiện nay hay không? 
Rất tiếc, câu trả lời của tác giả cũng như nhiều người tỉnh táo khác là 
không, hoàn toàn không.  
  Kinh nghiệm chống tham nhũng trên thế giới đã rất nhiều và những 
nguyên tắc chung được rút ra không gì ngoài những nguyên tắc chính: (i) 
về mặt thể chế phải có tam quyền phân lập, có sự phân chia và kiểm soát 
giữa các nhánh quyền lực; (ii) công khai và minh bạch trong những lĩnh 
vực như: hoạch định và thực thi chính sách, tài sản cán bộ công chức…; 
(iii) một nền báo chí tự do để người dân có thể giám soát các quan chức 
của mình… Có những điều kiện này chưa chắc đã có kết quả tốt trong việc 
chống tham nhũng nhưng nếu không có nó thì chắc chắn không thể chống 
tham nhũng. Việc lập ra một cơ quan chống tham nhũng trong thời đại ngày
 nay mà lại thiếu đi những điều kiện nền tảng ở trên mà trông mong nó 
hoạt động có hiệu quả thì chỉ là sự ảo tưởng.  
  Về mặt cơ chế, việc lập ra Ban Nội chính TW như thế này (với chân 
rết ở tất cả các tỉnh thành, khác với trước kia là chỉ có một số địa 
phương có văn phòng của Ban) rõ ràng có mục đích là “chống”, tức là có 
vụ án tham nhũng xảy ra rồi thì sẽ tham gia “xử lý”. Tuy nhiên, cái gốc 
của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã ăn quá sâu vào hệ thống, lan quá 
rộng ra mọi mặt của xã hội thì cách tốt nhất phải là “phòng”, tức là 
phải cải cách mạnh để triệt tiêu những thể chế tạo ra điều kiện cho tham
 nhũng như quyền lực, đất đai, đầu tư công, DNNN... Không giải quyết 
được những vấn đề gốc rễ này mà lại đẻ ra một tổ chức để chống thì không
 thể nào chống được vì có bịt lỗ này chắc chắn sẽ lại có nhiều lỗ khác 
xì ra.
  Về mặt hoạt động, cũng như Ủy ban kiểm tra TW của Đảng hiện nay, nó
 không công khai, minh bạch cho công chúng cách thức hoạt động mà chủ 
yếu là vận hành trong nội bộ, đa số có mục đích dĩ hòa vi quí, thậm chí 
là “nhân văn” để duy trì sự ổn định và đoàn kết của Đảng như lời dạy của
 TBT Trọng: “đấu tranh có lý có tình để tất cả cùng tiến lên chứ 
không cốt kỷ luật nhiều thì mới tốt. Tính nhân văn của NQ Trung ương 4 
là thế”, “quan trọng nhất là bước đầu phải nhóm được cái lò lên, 
tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi tươi đưa vào cũng phải cháy 
hết”; “Kỷ luật mà không tính kỹ, mai kia lại ân oán, thù oán, đối phó 
thành phe phái, làm rối nội bộ, có nên không” (Vietnamnet, 3/12/2012).
 Với cách chống tham nhũng mà lúc nào cũng sợ làm hại tới “sinh mệnh 
chính trị” của các quan chức như thế (còn mặc kệ sinh mệnh của dân) thì 
đừng mong nó có hiệu quả. 
  Về mặt con người, có lẽ TBT Trọng và một số người thực lòng muốn 
chống tham nhũng đã mơ ước tới vai trò của các quan chức trong Ban Nội 
chính TW giống Bao Thanh Thiên, tuyệt đối trong sạch, “thiết diện vô 
tư”, hoàn toàn khách quan nên đã “trang bị” cho Ban Nội chính TW một ông
 Trưởng ban nổi đình nổi đám với những tuyên bố vang trời là Nguyễn Bá 
Thanh và qui định là Trưởng ban sẽ là Ủy viên Bộ Chính trị. Hai Phó ban 
là Ủy viên TW (trước đó không hề có). Nhưng trong bối cảnh Việt Nam hiện
 nay, với một hệ thống chính trị có các quan hệ quyền lợi ràng buộc như 
mạng nhện thì mơ ước trên đây chỉ là điều viển vông không tưởng. Bản 
thân Nguyễn Bá Thanh được rất nhiều người kỳ vọng nhưng trước khi ra Hà 
Nội đã kịp đưa con trai là Nguyễn Bá Cảnh lên làm Bí thư Thành đoàn Đà 
Nẵng. Chưa kể, ông này khi còn ở Đà Nẵng đã dính không ít tai tiếng về 
tham nhũng. Ông Trưởng ban đã vậy thì lấy gì đảm bảo các ông phó hoặc 
cấp dưới không dính vào tham nhũng hoặc các quan hệ lợi ích nhằng nhịt. 
Với những cán bộ như vậy thì rõ ràng việc xử lý các vụ án tham nhũng sẽ 
mang nhiều động cơ chính trị với các sự thỏa hiệp và thương lượng để đảm
 bảo quyền lợi và vị trí của mình, đặc biệt là ở cấp địa phương.  
  Như vậy, có thể thấy trước rằng việc lập ra Ban Nội chính TW và coi
 đó là biện pháp chủ yếu để chống tham nhũng trong giai đoạn tới chắc 
chắn sẽ thất bại thảm hại vì nó không được hỗ trợ bằng những cải cách 
thể chế cơ bản. Cách thức hoạt động thì không công khai, minh bạch. Cán 
bộ của nó, đặc biệt là cán bộ ở cấp địa phương cũng không đáng tin vì có
 quá nhiều mối liên hệ chính trị rối rắm và có chức vụ hành chính có thể
 thấp hơn nhiều so với cán bộ chủ chốt ở đó [1]… 
  Việt Nam không dám học tập những kinh nghiệm tốt nhất ("best 
practice") về chống tham nhũng đã rất nhiều trên thế giới, tức là phải 
tạo ra môi trường để con người không thể (xử phạt nghiêm minh, không 
chạy án được), không dám tham nhũng (công khai minh bạch tài sản của 
quan chức) mà Việt Nam lại muốn tạo ra con người không muốn tham nhũng 
(Tất nhiên các nước khác cũng giúp quan chức “không muốn” tham nhũng 
bằng việc trả lương cao cho công chức nhưng với nguồn lực có hạn thì 
Việt Nam không thể làm theo). Việt Nam tạo ra sự “không muốn” tham nhũng
 chủ yếu bằng động cơ tinh thần, đạo đức. Chẳng hạn, đòi hỏi cán bộ phải
 có cái “tâm” trong khi chả ai định nghĩa được “cái tâm” là gì (Nếu anh 
có “tâm”, sao anh không tự nguyện công khai tài sản cho dân biết đi, cây
 ngay không sợ chết đứng mà). Biện pháp chống tham nhũng, tiêu cực chủ 
yếu hiện nay vẫn là phê và tự phê, cho cán bộ học tập tư tưởng đạo đức 
HCM thì đúng là quá ảo tưởng. Tác giả tin chắc rằng 100% người dân Việt 
Nam chả ai tin rằng đi học tập tư tưởng đạo đức HCM sẽ giúp cán bộ bớt 
tham nhũng cả. Vậy mà người ta vẫn rầm rộ thực hiện những việc vô bổ 
này, vừa tốn thời gian, tiền bạc, vừa làm lệch sự chú ý khỏi những việc 
cần thiết đáng lẽ phải làm.  
  Khi kinh tế suy thoái, cái bánh lợi ích bé đi thì việc tranh giành 
những phần bánh còn lại sẽ trở nên quyết liệt hơn. Trong bối cảnh chính 
trị nhiều bè phái hiện nay, nhiều khả năng là với cách thức tổ chức và 
hoạt động như thế này, Ban Nội chính TW sẽ trở thành một công cụ để đấu 
đá chính trị hơn là chống tham nhũng thực sự (Hãy nhớ ông trưởng ban 
Nguyễn Bá Thanh đã hạ nhục ông cựu tướng cảnh sát Nguyễn Văn Thanh tới 
mức dù đã nằm liệt trên giường bệnh vẫn bị đẩy cả giường ra tòa vì ông 
này và những người khác đã dám tố cáo Bá Thanh tham nhũng).  
2. Về Ban Kinh tế TW và nền kinh tế hiện nay
  Do thành tích điều hành kinh tế kém cỏi của chính phủ do thủ tướng 
Dũng đứng đầu, Đảng đã quyết định tái lập Ban Kinh tế TW để mong xoay 
chuyển nền kinh tế. Các nhiệm vụ chính của Ban Kinh tế TW gồm có:
  -  Thứ nhất, chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu, đề xuất xây dựng 
đường lối, chủ trương, nghị quyết đại hội, các nghị quyết, chỉ thị, 
quyết định về lĩnh vực kinh tế-xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ 
Chính trị, Ban Bí thư; các cơ chế, chính sách lớn về kinh tế-xã hội, 
phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, về các vấn
 đề xã hội …
  -  Thứ hai, thẩm định các đề án về kinh tế - xã hội trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
  -  Thứ ba, … Ban Kinh tế Trung ương sẽ giúp Bộ Chính trị, Ban Bí 
thư nắm tình hình, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chủ 
trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, 
sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà 
nước, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính… (Thuvienphapluat.vn)
  Như vậy, Ban Kinh tế TW có 2 nhóm nhiệm vụ chính là: (i) Nghiên 
cứu, đề xuất các chính sách và (ii) Giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư 
trong việc kiểm tra và giám sát.
  Với nhóm nhiệm vụ thứ nhất, từ khi ông Vương Đình Huệ lên làm 
Trưởng ban Kinh tế TW thì ông đã có nỗ lực tiếp xúc với một loạt các 
trường đại học ở Việt Nam như Đại học Thái Nguyên, Đại học Quốc gia Hà 
nội… (Tạp chí Tài chính, 29/3/2013) hay Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (Infonet, 17/5/2013) để ký kết các thỏa thuận hợp tác nghiên cứu.
  Vấn đề đặt ra ở đây là nếu nhiệm vụ chủ yếu chỉ là nghiên cứu, đề 
xuất chính sách thì có cần tái lập một ban đã bị giải thể và trưởng ban 
lại phải là Ủy viên Bộ Chính trị hay không? Rõ ràng là không.  
  Việc tư vấn chính sách thì bản thân các trường đại học hay viện 
nghiên cứu có thể làm tốt thông qua cơ chế đặt hàng từ các cơ quan cần 
nó mà không cần thêm một đầu mối là Ban Kinh tế TW. Nếu đồng ý rằng con 
đường đi lên của Việt Nam phải là nền kinh tế thị trường có mô hình 
tương tự với các nước phát triển thì có thể thấy Ban này rất khó có thể 
có những đóng góp gì đáng chú ý về mặt học thuật hay những chính sách 
mang tính đột phá để hiện đại hóa đất nước vì nó là một tổ chức của Đảng
 nên sẽ bị những rào cản lớn về mặt tư tưởng không thể vượt qua. Ai đã 
từng có dịp gặp các cán bộ của Ban Kinh tế TW trước đây thì đều biết 
năng lực của họ nói chung hạn chế, chủ yếu là cán bộ lý luận, nặng tính 
hành chính. Các cán bộ mới năng lực cũng khó có thể khá hơn vì đa số đều
 được đào tạo trong hệ thống các trường của Đảng mà bản thân các trường 
này cũng có tư duy tụt hậu so với thế giới hàng trăm năm nên cũng không 
thể đòi hỏi gì nhiều từ các sản phẩm do họ tạo ra. Cho dù có tuyển người
 thực sự giỏi, tốt nghiệp ở các nước phát triển về (theo qui định, Ban 
Kinh tế TW có thể mời các chuyên gia về kiêm nhiệm vị trí Phó ban (Pháp luật TP.HCM, 5/1/2013)
 thì họ cũng khó có thể phát huy khả năng trong một môi trường tù túng 
và bị kìm hãm về mặt tư tưởng và trí tuệ như vậy. Có lẽ không phải ngẫu 
nhiên mà ông Huệ, TS kinh tế tốt nghiệp ở Slovakia, từng là một giảng 
viên đại học lâu năm, nguyên hiệu phó Đại học Tài chính Kế toán lại ký 
kết nhiều thỏa thuận với các đại học và viện nghiên cứu vì chính ông có 
lẽ cũng hiểu khả năng tư duy và tầm mức trí tuệ của các cán bộ dưới 
quyền thế nào.  
  Nên lưu ý là nhiều nhà khoa học thực sự có tài trong hệ thống các 
viện nghiên cứu nhà nước ("think tank" quốc doanh) trong lĩnh vực khoa 
học xã hội cũng vì những ràng buộc về mặt tư tưởng, vì sợ bị chụp mũ là 
phản động, lệch lạc, suy thoái mà nhiều khi không thể nói thật những 
điều họ suy nghĩ. Như vậy, thử hỏi một ban của Đảng, phải báo cáo cho Bộ
 Chính trị và Ban Bí thư là nơi có những người tư duy thuộc dạng thủ cựu
 nhất Việt Nam hiện nay thì làm sao họ dám nói đúng sự thật, đó là nói 
nếu họ đủ khả năng để nhận ra đâu là sự thật. Trí thức phải có môi 
trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do học thuật để tranh luận thẳng 
thắn, các ý tưởng có thể cọ sát với nhau thì mới có thể tới gần chân lý 
chứ việc mời một vài chuyên gia, dù giỏi để làm việc theo kiểu “hiến kế”
 cho các nhà lãnh đạo bảo thủ như mô hình thế này rõ ràng không hiệu quả
 vì có nghe hay không phụ thuộc rất lớn vào ý muốn chủ quan của một vài 
lãnh đạo và liệu ý kiến tư vấn đó có tốt hay không cũng khó đánh giá vì 
chả mấy ai biết được do không được công khai tranh luận. Việc nên làm 
đầu tiên để có một hệ thống think tank tốt là cần bỏ ngay Điều 2 trong 
Quyết định 97/2009/QĐ-TTg do thủ tướng Dũng ký trong đó quy định khi 
phản biện thì "không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với 
danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ". Chính điều khoản có thể nói 
là ngu dốt này do một người thường tự hào là ngày nào cũng làm việc với 
các “trí thức”, người ngay khi mới lên nhậm chức đã ký quyết định giải 
thể Ban Nghiên cứu của thủ tướng, ban hành đã làm IDS, "think tank" tư 
nhân duy nhất của Việt Nam phải tự giải thể và cũng bịt hết đường ra đời
 cũng như góp ý của các "think tank" tư nhân khác.  
  Như vậy, có lẽ ý định chính của những người muốn tái lập Ban Kinh 
tế TW là thông qua nó, dùng quyền lực của Đảng để can thiệp vào quá 
trình hoạch định chính sách và giám sát các tập đoàn là các bầu sữa của 
chính phủ do thủ tướng Dũng đứng đầu.
  Năng lực điều hành yếu kém của chính phủ hiện nay là điều không thể
 phủ nhận nhưng việc quay lại thời kỳ sử dụng quyền lực của Đảng để can 
thiệp vào các công việc thuộc chức năng của chính phủ, đặc biệt trong 
lĩnh vực kinh tế chỉ tổ làm mọi việc tệ hơn mà thôi. Chưa nói tới sự 
chồng chéo về mặt thể chế, lý do cơ bản nhất là tư duy của các lãnh đạo 
Đảng thường là bảo thủ, tụt hậu rất xa so với mặt bằng chung các lãnh 
đạo trên thế giới (chỉ nói ở ASEAN thôi đã thua lắm rồi) nên rất không 
thích hợp cho một quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết phải hiện đại hóa 
và hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hai cái sai cộng lại 
không thể thành một cái đúng được, đặc biệt là trong trường hợp này. Nếu
 điều này xảy ra, nó có nguy cơ càng làm đất nước tụt hậu xa hơn nữa.  
  Tóm lại, với việc tái lập hai ban này cũng như một số biện pháp 
khác đã được tiến hành, TBT Trọng và những người cùng suy nghĩ với ông 
cũng có thể có mong muốn thật lòng là muốn giảm bớt trình trạng tham 
nhũng đã quá nghiêm trọng và cải thiện được tình hình kinh tế bi đát 
hiện nay. Tuy nhiên, rõ ràng cuộc Thập tự chinh được TBT Trọng khởi 
xướng để chống lại tham nhũng và suy thoái kinh tế chắc chắn sẽ thất bại
 vì nó được dựa trên một nền tảng tư duy hết sức thủ cựu, đầy ảo tưởng, 
mang nặng niềm tin tôn giáo hơn là thực tiễn, chủ yếu để đánh lừa dư 
luận và tự đánh lừa chính mình. Dùng sự sai lầm về thể chế để đối phó 
với sự sai lầm của một người (thủ tướng Dũng) thì chỉ càng làm 
tình hình xấu thêm vì con người sai còn có thể thay nhanh chứ thể chế 
sai khi đã được thiết lập sẽ mang tính bền vững khó thay đổi hơn nhiều. 
  
  3. Con đường gập ghềnh sắp tới của Việt Nam   
  Như trong một bài viết của tác giả vào tháng 11/2012 về kinh tế Việt Nam (Viet-studies, 20/11/2012), tác giả có nhận định rằng triển vọng trung hạn của nền kinh tế Việt Nam là rất kém vì những lý do chính sau:  
  -  Hầu hết các cải cách quan trọng cần thiết để giải phóng các 
nguồn lực tăng trưởng trong trung và dài hạn liên tục bị trì hoãn mà 
không được thực thi. Nhưng bản thân nhiều cải cách này cũng sai ngay từ 
định hướng nên kết quả rất khó thành công hay nói đúng hơn là chắc chắn 
cũng sẽ thất bại.
  -  Thể chế chính trị hay nói cụ thể hơn là bộ máy lãnh đạo cấp cao ở
 Việt Nam hiện nay đã mất khả năng “tự sửa sai” và lợi ích của số đông 
cán bộ lãnh đạo không còn gắn với với lợi ích của đại đa số nhân dân và 
đất nước nữa.  
  -  Nhiều chính sách kinh tế trong thời gian kể từ khi thủ tướng 
Dũng lên nắm quyền và đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây 
có chất lượng rất kém (ví dụ điển hình gần đây là chính sách quản lý 
vàng của NHNN).
  Đến nay, sau 6 tháng, quan điểm của tác giả vẫn không hề thay đổi mà còn được khẳng định thêm bằng những sự kiện gần đây.  
  Các chuyên gia đều thấy các bước cải cách cơ cấu quá chậm hay nói 
đúng hơn là không tiến được gì, chỉ thấy nói, nói và nói. Trong kỳ họp 
Quốc hội đang diễn ra, ông Đỗ Văn Đương, ĐBQH phải thốt lên: “Tôi 
thấy báo cáo của Chính phủ rất sơ sài, không phân tích được nguyên nhân,
 cũng không thấy rõ ràng giải pháp. Trong một trang mà tôi đếm có tới 23
 lần các từ “đẩy mạnh, tăng cường, tích cực”. Ta hô hào rất nhiều mà 
giải pháp cụ thể không được bao nhiêu”. (Tuổi trẻ, 23/5/2013)  
  Tại sao các cải cách cấu trúc rất cần thiết cho tương lai dài hạn 
của nền kinh tế mãi bị trì hoãn? Rất nhiều người đã chỉ ra nguồn gốc của
 nó là do các nhóm lợi ích muốn duy trì hiện trạng (status quo), chống 
lại sự thay đổi và tầng lớp lãnh đạo thiếu đi quyết tâm chính trị để cải
 cách hoặc còn tệ hơn là chính họ cũng nằm trong các nhóm lợi ích chống 
lại sự thay đổi.  
  Bộ máy lãnh đạo chóp bu của đất nước (Ban chấp hành TW Đảng) hiện 
nay đã cho thấy họ không thực lòng, không đủ tầm trí tuệ và cũng không 
có khả năng thực hiện những cải cách mạnh mẽ và cần thiết để đưa đất 
nước trở lại đường ray tăng trưởng nhanh và bền vững. Đa số họ hiện nay 
toan tính về quyền lợi cá nhân và phe nhóm nhiều hơn là các vấn đề cấp 
bách và sát sườn của đất nước. Các cuộc hội nghị của Ban chấp hành TW 
gần đây diễn ra trong tình hình đất nước suy thoái trầm trọng cả về kinh
 tế, văn hóa, xã hội nhưng lại không tập trung vào việc tìm ra giải pháp
 cho những vấn đề đó mà lại chỉ tập trung nhiều nhất vào vấn đề bầu bán 
nhân sự, mà nằm đằng sau đó là đấu đá vì lợi ích phe nhóm. Không có 
chính sách đột phá nào được đưa ra. Sửa đổi Hiến pháp (phải được Ban 
chấp hành TW thông qua trước) được quảng cáo rầm rộ, tốn kém, nhưng cuối
 cùng chủ yếu chỉ là sửa câu chữ, nhiều vấn đề còn đi thụt lùi về mặt tư
 duy (như điều 70 trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bắt quân đội phải thề 
trung thành với Đảng). Những người có trách nhiệm chính trong việc gây 
ra tình trạng suy thoái nặng nề hiện nay, cụ thể là thủ tướng Dũng, 
không hề bị trừng phạt mà lại càng được củng cố vị thế chính trị sau Hội
 nghị TW 7… Những biện pháp được đưa ra để đối phó với tham nhũng và suy
 thoái kinh tế lại mang tính bảo thủ, đi ngược với thời đại và cầm chắc 
là thất bại.  
  Chỉ cần nhìn người đứng đầu, ông TBT Trọng, là cũng có thể đánh giá
 được phần nào về chất lượng trí tuệ và bản lĩnh của Ban chấp hành TW 
hiện nay. Ông cũng bức xúc về tình hình đất nước nhưng những biện pháp 
ông đưa ra chủ yếu là những công cụ của quá khứ dựa chủ yếu vào niềm tin
 giống tín ngưỡng tôn giáo với mục đích: “có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, …theo phương châm "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ” (QĐND, 15/10/2012) thì
 làm sao có thể đối đầu được với những “bầy sâu” tham nhũng đầy mưu mô 
nham hiểm (theo lời của ông chủ tịch nước) đang nhung nhúc trên khắp đất
 nước này?
  Về việc sửa đổi Hiến pháp, TBT Trọng nói:  “Lần này chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao”. (Pháp luật Tp.HCM, 3/5/2013).
 Theo cách tư duy này thì đừng mong đất nước có được một Hiến pháp hiện 
đại, dân chủ, phù hợp với thời đại. Đã gọi là chính trị mà cái gì cũng 
mong có sự “thống nhất cao” thì chỉ là ảo tưởng, đi ngược lại bản chất 
con người là luôn đa dạng trong ý kiến và sẽ không bao giờ dám quyết 
đoán đưa những giải pháp đột phá cho đất nước được. Rõ ràng TBT Trọng và
 các đồng sự trong Ban Chấp hành TW sẵn sàng hi sinh tương lai của đất 
nước để giữ được sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ đảng của mình.  
  Tóm lại, như đã nói ở bài trước, tác giả cho rằng ngược với câu khẩu hiệu nổi tiếng của TBT Trường Chinh: “Đổi mới hay là chết” thì câu khẩu hiệu của TBT Trọng và TW hiện nay là: “Thà chết (dân) chứ (nhất định) không đổi mới”, “Thà mất nước chứ không đánh mất chế độ”.
  Sau khi đã mất niềm tin ở Ban chấp hành TW thì một số người kỳ vọng
 nhiều vào kỳ họp Quốc hội lần này với việc lần đầu tiên có việc bỏ 
phiếu tín nhiệm cho 49 người được Quốc hội bầu. Bản thân có đại biểu 
Quốc hội cho rằng việc chạy phiếu rất khó vì có 500 đại biểu từ nhiều 
vùng khác nhau [2]. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ có 500 đại biểu nhưng đại
 đa số đều có chung một nguồn gốc: Đảng Cộng sản 
(hơn 91%)! [3]. Ở đây, tác giả chỉ xét riêng về trường hợp liệu Quốc hội
 có bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp cho thủ tướng Dũng hay không?
  Tác giả có khảo sát thử danh sách đại biểu Quốc hội của 15 tỉnh và 2
 thành phố Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh thì thấy số đại biểu giữ các chức vụ
 trung, cao cấp trong Đảng như: phó bí thư tỉnh ủy, thường vụ tỉnh ủy, 
tỉnh ủy viên, ủy viên TW, ủy viên BCT, phó bí thư đảng ủy khối… hoặc tệ 
nhất thì cũng nằm trong huyện ủy… thường rất cao, địa phương nào cũng 
phải ở mức 2/3 trở lên. Cụ thể, trong 111 ĐBQH của 15 tỉnh thì số này 
chiếm khoảng 71 người, trong đó có 18 ủy viên TW, 4 ủy viên Bộ Chính 
trị. Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh mỗi địa phương có 30 ĐBQH, tổng cộng là 60
 người thì trong đó số đại biểu là đảng viên cỡ trung, cao cấp trở lên 
là 40, trong đó có 3 ủy viên TW, 3 ủy viên Bộ Chính trị. Như vậy, tỷ lệ 
đảng viên trung, cao cấp trong Quốc hội chiếm khoảng 65% trở lên.
  Chắc chắn, suy nghĩ và cách tư duy của số đảng viên trung, cao cấp 
này không khác nhiều với Ban chấp hành TW và họ cũng sẽ bị ảnh hưởng 
nhiều bởi quyết định Ban chấp hành TW thông qua các cuộc họp Đảng, các 
cuộc phổ biến nghị quyết, các mối quan hệ cá nhân, các cuộc vận động 
hành lang… Trong lịch sử Quốc hội những năm gần đây cũng chưa thấy bao 
giờ Quốc hội bỏ phiếu trái ý với quyết định từ Ban chấp hành TW cả dù 
trước đó có thể thảo luận rất sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều. Cứ 
nhìn ví dụ rõ ràng về dự án bauxite là thấy. (Trường hợp duy nhất mà 
Quốc hội có vẻ có ý kiến độc lập và bỏ phiếu khác với dự kiến là việc 
không thông qua dự án xây dựng Đường sắt cao tốc nhưng nên nhớ là TW 
Đảng chưa cho ý kiến về dự án này).
  Như vậy, khi Hội nghị TW6 và 7 đã không thể kỷ luật được thủ tướng 
Dũng và phe nhóm, thậm chí vị thế của ông này hiện nay còn được nâng cao
 hơn [4] thì chắc chắn không thể mong các đại biểu Quốc hội lại bỏ phiếu
 chống thủ tướng được. Chưa tính tới các cuộc vận động hành lang cộng 
với tâm lý cả nể, xuê xoa, đại khái của người Việt Nam, tác giả tin 
rằng, tỷ lệ tín nhiệm của thủ tướng sẽ phải từ 70-80% trở lên.
  Nếu có thành viên chính phủ nào bị bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp 
thì có lẽ sẽ là thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Như trong 
một bài trước của tác giả về thống đốc Bình
 (Viet-studies, 23/2/2013), tác giả cho rằng việc thống đốc Bình đưa 
NHNN vào cuộc chiến với vàng như hiện nay là một toan tính sai lầm, 
thiếu suy nghĩ chín chắn, mang lại rất nhiều tác hại cho người dân, cho 
nền kinh tế và có thể làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của thống đốc 
Bình. NHNN đã đưa ra nhiều lập luận và dẫn chứng để chứng tỏ cách điều 
hành thị trường vàng hiện nay là hợp lý (Vneconomy, 8/5/2013).
 Tuy nhiên, chỉ xin nói thêm là bất cứ chính sách vĩ mô nào cũng phải có
 sự đánh đổi và tất nhiên chính sách về vàng hiện nay của NHNN cũng sẽ 
phải có một số kết quả nào đó, vấn đề là liệu cái giá phải trả cho các 
“kết quả” đó có quá lớn hay không. Xin nhắc lại là bản thân các lập luận
 của Marx và những người theo ông về ưu thế của nền kinh tế kế hoạch tập
 trung so với kinh tế thị trường như: không sử dụng lãng phí các nguồn 
lực vì không tạo ra sản phẩm thừa, hướng nguồn lực khan hiếm vào những 
ngành sản xuất có ích cho quá trình phát triển, triệt tiêu sự bất công 
vì thặng dư của quá trình sản xuất sẽ được đưa vào ngân sách rồi tái 
phân phối cho người lao động (giống lập luận của NHNN về việc nguồn thu 
từ giá vàng cao sẽ được đưa vào ngân sách rồi được đầu tư trở lại cho 
người dân)… đều hết sức hấp dẫn, xác đáng và khó bị bác bỏ về mặt lập 
luận. Tuy nhiên, cuối cùng rồi thì mô hình đó cũng thất bại vì nó dựa 
trên quá nhiều giả định không tưởng về bản chất con người và đi ngược 
lại các qui luật cơ bản của kinh tế thị trường. Tác giả tin chắc chính 
sách quản lý vàng của NHNN hiện nay cũng sẽ không đi ra ngoài sự thất 
bại này vì nó dựa trên các công cụ hành chính đi ngược hoàn toàn với thị
 trường, với kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới… Các quốc gia 
khác cũng đạt được những “kết quả” mà NHNN khoe, thậm chí còn tốt hơn 
nhiều nhưng họ không bắt người dân và nền kinh tế phải trả một cái giá 
quá cao như NHNN đang làm ở Việt Nam.  
  Chưa kể, chính sách quản lý vàng hiện nay đã đưa NHNN vào cuộc 
tranh cãi bất tận với đa số các chuyên gia phản đối chính sách này. 
Người dân cũng bất bình vì khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá 
vàng quốc tế. Dù thống đốc Bình và NHNN có biện minh thế nào đi chăng 
nữa về các chỉ số vĩ mô thì logic của người dân rất đơn giản: không ai 
muốn mua hàng giá đắt cả. Nếu giá vàng trong nước cao hơn một cách quá 
phi lý với giá vàng thế giới thì họ đều nghĩ họ đang bị bóc lột bởi 
những chính sách của NHNN. Họ sẽ không còn tin những gì mà NHNN hứa hẹn 
vì chính trước đó thống đốc Bình đã nói giá vàng trong nước cao hơn thế 
giới 400.000 đồng/lượng là đã có đầu cơ nhưng hiện nay có lúc giá chênh 
lệch tới gần 7 triệu đồng/lượng! Tất cả những ai có hiểu biết về hoạt 
động của một ngân hàng trung ương đều biết rằng một trong những yếu tố 
then chốt làm nên sự hoạt động thành công của nó phải là sự khả tín hay 
nói cách khác là mức độ tin cậy của người dân vào NHTW. Những tranh cãi 
qua lại liên miên với các chuyên gia và sự bất bình của người dân đã làm
 xói mòn nghiêm trọng uy tín của NHNN và triệt tiêu niềm tin của người 
dân với tổ chức này. Chính vì thế tác giả hoàn toàn đồng ý với TS Phạm 
Chí Dũng rằng thống đốc Bình phải ra đi (BBC, 14/5/2013) thì NHNN Việt Nam mới phần nào có thể lấy lại niềm tin của người dân.  
  Tóm lại, dù các đại biểu Quốc hội hiện nay trong thảo luận có nhiều
 phát biểu rất hăng hái và bức xúc về hiện tình của nền kinh tế đến đâu 
nhưng với chất lượng thể chế, chất lượng chính sách, chất lượng quan 
chức như hiện nay thì tác giả vẫn chưa thấy đâu là lối thoát của nền 
kinh tế và tương lai của đất nước còn rất mờ mịt.
______________________
[1] Về nhân sự lãnh đạo, Ban Bí thư yêu cầu bố trí cán bộ cỡ ủy viên 
thường vụ tỉnh/thành ủy làm trưởng ban nội chính. Nơi chưa có điều kiện 
thì giao vị trí quan trọng này cho cấp ủy viên thuộc diện được quy hoạch
 vào thường vụ tỉnh/thành ủy khóa tới. (Vietnamnet, 5/5/2013).
[2] Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục và Thanh thiếu niên
 nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến 
hành lấy phiếu đánh giá tín nhiệm với 49 chức danh quan trọng nhất quả 
thật sẽ ít nhiều gây áp lực đối với các đại biểu Quốc hội”. Tuy nhiên, 
bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ thực hiện công việc này một cách thực chất 
vì “với một tập thể gần 500 người, đại diện cho mọi vùng miền, mọi thành
 phần cử tri trong xã hội thì việc “chạy phiếu” là rất khó. (Kienthuc.net.vn, 21/5/2013)   
[3] Quốc hội khóa 13 có 42 người ngoài Đảng trúng cử, chiếm tỷ lệ 8,40% (Dân trí, 3/6/2011)
[4] Thủ tướng Dũng là một nhà chính trị cực kỳ khôn ngoan và lão 
luyện, khác hẳn sự gà mờ và non nớt của TBT Trọng. Hãy nhớ cách thủ 
tướng xây dựng phe cánh bằng cách thâu tóm quyền lực kinh tế bằng việc 
giành quyền bổ nhiệm ban lãnh đạo các tập đoàn kinh tế, bổ nhiệm cho 
hàng trăm tướng công an… Thủ tướng Dũng cũng rất giỏi trong việc xây 
dựng hình ảnh trước công chúng và lấy lòng giới lãnh đạo quân đội khi 
thời gian gần đây liên tục đi thăm các quân chủng phòng không, không 
quân hay sang tận Nga để thị sát các tàu ngầm mà Việt Nam sắp mua. Hiện 
nay nhiều người có nói rằng nếu có thay thủ tướng Dũng cũng chả có ai 
xứng đáng để đưa lên. Theo tác giả đây cũng chính là cách để thủ tướng 
Dũng duy trì quyền lực của mình. Tức là khác với những người tiền nhiệm 
như ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải đã có ý thức bồi dưỡng cho những 
cán bộ kế cận thay thế mình thì thủ tướng Dũng đã cố tình sử dụng những 
người có năng lực kém, hay phát ngôn những câu trời ơi làm người dân 
thất vọng (như PTT Nhân hay bộ trưởng Thăng là ví dụ điển hình) để càng 
làm nổi bật mình và không tạo ra đối thủ chính trị trong tương lai.  
  Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-5-13
 
