Bài viết của ông Jonathan London trên blog của ông "Đừng giữ một giấc mơ đã chết, hãy tập trung vào hiện tại” mà sau đó 
được BBC đăng lại đã gây nhiều tranh cãi mà hai bài viết „Con đường nào 
đi tới?” và „Tôi thấy giấc mơ vẫn còn đó” của ông sau đó có vẻ chỉ làm 
chìm sóng gió một cách miễn cưỡng.
Tuy ông Jonathan London nói về bài viết coi cờ vàng “đã chết” là “có 
một số thiếu sót nghiêm trọng và nội dung bài viết đã gây buồn lòng và 
làm tổn thương nhiều người” nhưng tôi lại cảm thấy băn khoăn nhiều hơn 
an ủi.
Có hai vấn đề ông đưa ra. Một là ông xin lỗi và không muốn xúc phạm 
tình cảm của những ai trân trọng cờ vàng. Hai là ông vẫn duy trì quan 
điểm nên dẹp chuyện vẫy cờ sang một bên khi chưa lo xong chuyện thay đổi
 thể chế. Giữa hai vấn đề, người đọc được bồi bổ thêm kiến thức về những
 suy nghĩ của ông với Việt Nam.
Thứ nhất, việc phân giải bản chất của tác giả, xin lỗi và nhận lời 
xin lỗi hay không là việc mà tôi xin miễn bình luận, coi đây như một 
trong các yếu tố có thể xuất hiện trong lúc tranh luận và mỗi người 
trong công chúng có đặc quyền tha thứ riêng. Nhưng những yếu tố còn lại 
làm tôi vô cùng e ngại mà theo tôi không thể khép lại sau các bài viết 
của ông tiến sĩ.
Ướp sống?
Coi chuyện vẫy cờ là „chướng ngại vật” trong môi trường đấu tranh dân
 chủ cho Việt Nam dĩ nhiên đẩy cờ vàng ra rìa công cuộc chống đối cam go
 hiện nay đồng thời làm những người muốn nhận lời xin lỗi từ ông như tôi
 đặt thêm dấu hỏi ông xin lỗi điều gì và đang nhắn nhủ chúng tôi điều 
gì. Nói nôm na, ông bỗng dưng nhận thấy giấc mơ cờ vàng „chưa chết” 
nhưng khuyên hãy ướp mạng sống của nó trong lúc chờ thời cơ. Hỡi ơi!
Tôi có những bất đồng tương tự khi đọc các suy nghĩ của ông trong bài „Có con đường nào đi tới?”. Xin lần lượt liệt kê.
Thời Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, tướng Wojciech Jaruzelski từng phải 
bất ngờ ban lệnh thiết quân luật, chỉ trong vòng 3 năm đẩy hơn 10 ngàn 
người hoạt động dân chủ vào trại giam, chưa tính số nạn nhân bị thủ 
tiêu. Nhân mạng, tù đầy, uy hiếp…. Tất cả chỉ để ướp lạnh mọi giấc mơ. 
Cuối cùng thì giấc mơ thành hiện thực không chỉ đối với Ba Lan trong khi
 có người mong nó bị chết cóng từ lâu mà tốt nhất là đi vào quên lãng.
Nói cho cùng, nếu cứ ướp lạnh „have a dream” của Nelson Mandela thì không rõ ngày nay văn minh nhân loại nằm ở xó xỉnh nào đây.
Có quá nhiều giấc mơ thực sự sống cùng dân tộc và con người thực với 
trái tim biết khát khao luôn là ác mộng của độc tài. Bởi thế mà đã hơn 
50 năm sau khi Đại Lai Lạt Ma rời quê lánh nạn, nhà cầm quyền Trung Quốc
 vẫn phải chật vật đối phó với những ước mơ của ông. Dĩ nhiên lá cờ 
truyền thống của Tây Tạng là biểu tượng bị cấm đoán khay khắt nhất và 
Trung Quốc liệt kê vô vàn lý do để biện hộ cho việc cấm đoán đó. Y như 
đảng cộng sản Việt Nam đang làm với cờ vàng.
Tạm thôi?
Tôi không thấy trên thế giới có học giả nào khuyên Đạt Lai Lạt Ma rời
 bỏ ước mơ hay giả bộ phủ nhận biểu tượng Tây Tạng để coi đó là sách 
lược đối với Trung Quốc dẫu sự giành giật ở Tây Tạng đang ngày một tàn 
nhẫn mà hậu quả tới nay là các vụ tự thiêu diễn ra gần như triền miên.
Hãy nhìn sang Tây Tạng, Miến Điện, Ba Lan… để biết không thể vừa hòa 
mình vào lô-gích của độc tài, vừa bài trừ tệ nạn do chính độc tài tạo 
ra.
Ở Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi thà để đối phương trù dập mình, chứ 
không chấp thuận chùn bước dù luôn có cơ hội „chủ động tạm thôi”.
Đi ngược lại mong muốn của độc tài nghĩa là nắm bắt cơ hội duy nhất 
và con đường duy nhất cho chúng ta xoay đổi thế cờ. Vì thế việc học giả 
Jonathan London lên tiếng ủng hộ ý tưởng „tạm ngưng vẫy cờ” làm tôi vô 
cùng khó hiểu, nhất là khi ông tiếp tục hứa hẹn ủng hộ nhân dân Việt Nam
 trên con đường dân chủ hóa đất nước.
„Chúng ta”?
Ở Việt Nam, từ nay tới khi tình thế ngã ngũ, muốn hay không, sẽ luôn 
có hai phe: một phe ít nhiều thuộc đảng cộng sản và một phe của của xã 
hội ít nhiều tổn thương. Qua bài viết của tiến sĩ Jonathan London tôi 
được biết trong hàng ngũ đảng có „nhiều người thông minh tận tụy” và họ 
có những khát vọng „như tất cả chúng ta”. Tôi thật sự phát hốt và cáo 
lỗi xin ông đừng cho tôi vào đám „chúng ta” đó.
Tại sao việc họ „bị trói trong các thể chế còn khiếm khuyết” là điều 
được dĩ nhiên công nhận như một thực tế khách quan, như những bối rối 
trong lúc đợi chờ Gov-ba-chốp hoặc Kim Dae Jung xuất hiện tại Việt Nam? 
Trong khi đó „chúng tôi” phải tiếp tục chứng kiến bao phiên tòa phi lý, 
bao bản án phi nhân mà tác giả là „thể chế khiếm khuyết” được mông má 
bởi những nhân vật „thông minh tận tụy”. Tôi không thể tin và không thể 
chấp nhận lời nói ngọt ngào rằng nỗi uất giận và khát khao của tôi và 
của những người trong đảng cộng sản „cũng như nhau”. Khát vọng của những
 ông bố bà mẹ có con bị chế độ vùi dập, khát vọng của những người muốn 
tìm sự thật cho những án mạng khuất tất trong đồn công an, khát vọng của
 những thuyền nhân tìm tự do trên biển, khát vọng của dân oan bị cướp 
đoạt đất sống và khát vọng của những người „điên tiết” bởi bài viết của 
ông không thể đem so sánh bừa phứa với khát vọng của 3 triệu đảng viên 
phần lớn tồn tại được nhờ các „khiếm khuyết” vì e rằng việc so sánh này 
khiến ông phải xin lỗi thêm lần nữa.
Cờ lạ?
Tiến sĩ Jonathan London cho rằng có thể dung hòa giữa việc tạm ngưng 
vẫy cờ vàng và tạm ngưng bàn chuyện quốc kì trong hi vọng „một ngày nào 
đó Việt Nam sẽ có một lá cờ mà tất cả mọi người cùng chấp nhận” trong 
khi ông tiếp tục khuyến khích chúng tôi nhìn xem có những con đường nào 
đi tới.
Phải bàn luôn chuyện quốc kì cho ra nhẽ, bởi tôi thấy có xu hướng 
trong những bài viết và lời bình của ông J.London muốn người Việt tham 
vọng mang thêm một lá cờ lạ nào đó vào Việt Nam. Lại thêm một ý kiến làm
 tôi phải phản đối.
Sẽ là mị dân khi nói các dân tộc có thể đi vào tương lai mà không 
mang theo hành trang quá khứ. Cũng không có lá cờ nào dĩ nhiên được một 
thể chế dân chủ nào đó vẽ ra mà không màng tới các giá trị truyền thống 
vượt thời gian và phi đảng phái.
Việt Nam được thế giới biết tới như một dân tộc khác biệt tại Á Châu 
với màu vàng tượng trưng cho giáo lý Phật Pháp tiểu thừa. Màu vàng cũng 
là màu của người chủ quốc vương trên ngai vàng. Nếu có tìm thêm màu sắc 
của các cuộc khởi nghĩa như Trần Hưng Đạo, bà Trưng bà Triệu… thì cũng 
rất khó tìm ra màu đỏ. Tìm sao vàng càng bó tay. Trong trường hợp Việt 
Nam, màu đỏ thật sự đại diện cùng sự có mặt của phong trào cộng sản nước
 Nga. Kể cả „bác” Hồ cũng không dấu điều đó khi bắt trước Trung Quốc 
nhập nội cờ đỏ từ rất xa về Việt Nam.
Chỉ có các giá trị và truyền thống mới là điểm dựa có sức đột phá 
tiếp sức cho mọi thế hệ dân chủ Việt Nam, từ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, 
linh mục Nguyễn Văn Lý, tới các bạn trẻ mới vào tù gần đây. Khi độc tài 
tưởng đã hạ bệ được „chúng ta” bằng bạo lực thì giá trị truyền thống là 
giá đỡ có thật và hiên ngang nhất bảo vệ sự sống dân tộc dẫu có người 
vẫn chưa nhận ra điều đó. Việc người Việt trưng cờ vàng không chỉ là 
việc nhắc nhở quá khứ hay nâng niu cảm xúc mà đang thực hiện công cuộc 
xây dựng tương lai bằng cách duy trì giá trị dân tộc thâu suốt. Nguyễn 
Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha hiên ngang trước tòa bởi có được sự nâng 
đỡ vô giá đó và trên hết thấu hiểu sức mạnh đó.
Dân chủ nhà nước yêu dân chủ ngoài luồng?
Ông Jonathan London nói vì có câu chuyện vẫy cờ mà môi trường dân chủ
 Việt Nam gặp „chướng ngại vật” khi ông gộp những người „thuộc bộ máy 
nhà nước” và những người „đối lập với nhà nước” vào cùng một khối. Tôi 
hoài nghi điều này bởi trên thực tế, phe nhà nước chỉ nhập cuộc dân chủ 
khi tình thế đã ngã ngũ hoặc đã bị dồn tới chân tường. Việc vẫy cờ màu 
gì trước và sau đó chỉ là một trong các cớ câu giờ.
Còn nếu xét việc vẫy cờ từ góc nhìn của những nhà hoạt động dân chủ 
„ngoài luồng” thì nguồn cảm hứng không bao giờ mâu thuẫn với hành động 
bởi họ gánh mạo hiểm quá cao. Các nhà hoạt động thấu hiểu điều gì là giá
 trị cần ưu tiên khi bị bài trừ. Lá cờ, nếu đã là nguồn cảm hứng, thì sẽ
 không thể đồng thời là chướng ngại vật trong công cuộc đeo đuổi mục 
đích. Nỗ lực của người Việt tị nạn trước kia cho tới Nguyễn Phương Uyên 
ngày nay đã chứng minh sức mạnh phi thường của sự liên kết đó.
Ngoài ra, các „chướng ngại vật”, nếu có, cũng không thành vấn đề phải
 dấu nhẹm. Các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam theo tôi không muốn ngoảnh
 mặt làm ngơ với các „chướng ngại vật” mà trước sau phải đối diện. Ngoài
 việc quốc kì, chúng ta còn phải tranh luật dài dài để đòi công bằng cho
 các thân nhân và chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, phải giải quyết được các 
oan ức đất đai, phải biết thành tâm tưởng nhớ boat people bỏ mạng tìm tự
 do, phải đòi công bằng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong
 khi vẫn phải đối diện với Giáo Hội Phật Giáo của nhà nước…
Hai chân mạo hiểm ngã ba đường
Người Việt hiện nay đang thực sự dành vai trò thách thức đối phương 
qua tự do tư duy và tinh thần bất khuất. Những con đường nào cho Việt 
Nam ư? Bài học của những cuộc các mạng đã thành công cho thấy con đường 
chính nghĩa chỉ có một, nhưng ý kiến thì nhiều. Có ý kiến cho rằng có 
thể đặt hai chân ở hai bờ chiến tuyến để giữ vai trò khó định nghĩa như 
ông J.London với tờ Nhân Dân. Cũng có gợi ý khác về con đường kém vinh 
quang, đầy mạo hiểm ở giữa khoảng không của hai cái chân đôi khi được 
gọi là cây cầu hòa hợp… Không biết có tới được đích hay không nhưng chắc
 chắn chui qua háng chân là con đường luồn lách và cúi đầu.
Tôi không cho rằng đội ngũ dân chủ Việt Nam có xu hướng tìm giải pháp
 trung dung dẫu phía bên kia là đảng cộng sản đang nỗ lực vận động cho ý
 tưởng này.
Theo dõi hướng đi của thế hệ trước như Hòa Thượng Thích Huyền Quang, 
tù nhân lương tâm Trương Văn Sương, Nguyễn Hữu Cầu… và theo dõi động lực
 vận hành của cỗ xe dân chủ thời nay thì có thể đi tới kết luận rằng 
người vạch đường thấu đáo nhất là người đã gán số phận mình quyết cho cỗ
 xe chạy tới đích. Kẻ đứng giữa ngã ba đường tất nhiên có thể khua 
khoắng chướng ngại vật với dụng ý tốt nhưng e đó là hành vi vô bổ đầy 
mạo hiểm. Hơn nữa, khi đã thống nhất cỗ xe đang chạy là cơ hội duy nhất 
kéo Việt Nam rời độc tài thì chúng ta đừng phân vân mà hãy chủ động vịn 
tay tiếp sức. Về phía mình, tôi sẽ cố gắng dẫu tôi sinh sau 1975, từng 
có nhiều năm học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội và nay đang
 hoạt động xã hội tại Ba Lan.
 25 tháng 5 năm 2013, Warszawa
© Tôn Vân Anh
 
