Có những thời điểm mà lịch sử chạy nhanh hơn bình thường. Chúng ta
đang sống trong một thời điểm như thế. Trong thời gian từ đầu tháng 5
đến nay, Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng trong nền chính trị
của đất nước. Tôi thậm chí dám khẳng định rằng có khả năng Việt Nam đã
bước vào giai đoạn chính trị có tính quyết định nhất kể từ năm 1975. Tất
nhiên những biến chuyển tôi đang đề cập liên quan đến những hành động
phi lí của Bắc Kinh trên biển và, cụ thể hơn, những tác động của nó đối
với nền chính trị của Việt Nam, gồm cả chính trị nội bộ của đảng cầm
quyền và xã hội Việt Nam.
Phải cười một chút khi viết những từ “tôi dám khẳng định có khả
năng.” Viết thế để vừa nêu một cách mỉa mai những khó khăn mà chúng ta
thường gặp trong việc phân tích chính trị ở Việt Nam và vừa nêu tình
trạng đầy cơ hội nhưng không có gì chắc chắn của tình trạng đất nước
đang đối phó hiện nay.
Đánh giá tác động của những sự kiện xoay quanh “vụ 981” và những kết
quả của nó gặp hai trở ngại lớn, làm cho chúng ta khó có thể đánh giá
tầm quan trọng hay ý nghĩa lịch sử của giải đoạn này. Lý do thứ nhất,
chúng ta chẳng có khả năng để dự báo tương lai, như nhà bình luận Cao
Huy Thuần đã tìm hiểu trong một bài đáng độc
gần đây. Tình trạng còn biến chuyển nhanh và phức tạp. Tình trạng có
quá nhiều “biến số,” gồm cả động thái của Bắc Kinh, những phát triển
trong quan hệ Việt-Mỹ, Việt-Nhật, v.v., những biến chuyển và sự kiện
trên biển, và những chuyển động chính trị ở Việt Nam cả trong lẫn ngoài
bộ máy.
Lý do thứ hai chính là sự thiếu minh bạch (nếu không muốn nói là tính
mờ đục) của nền chính trị cấp cao Việt Nam mà, đến nay, làm cho ai –
trừ khoảng 0,00001 % người Việt Nam (cũng như tôi) – rất khó phân tích
rõ tình trạng. Kể cả những nhà phân tích giỏi nhất vẫn phải dựa vào
những suy đoán và những từ như “có thể”, “rất có thể”, “có khả năng”,
“có thể tưởng tượng”, vân vân… Đối với giới nghiên cứu hay bình luận về
chính trị ở Việt Nam, chẳng có ai tránh khỏi được trở ngại này.
Vậy, bất chấp những hạn chế trên, suy ngẫm về những biến chuyển,
những thay đổi, và những gì mà chúng ta chưa biết được về Việt Nam hậu
981 vẫn có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những khả năng, cơ hội, và
rủi ro đất nước đang đối diện. Cũng có thể góp phần một chút đến những
thảo luân đang tiếp diễn ở Việt Nam. Ở đây, tôi sẽ đề cập một cách ngắn
gọn đến vài lĩnh vực then chốt. Cuối cùng, tôi sẽ đặt ra một số câu hỏi
mà “cũng có thể” (hihihi!) mang tính quyết định cho phương hướng của đất
nước.
Chính trị nội bộ cấp cao
Hiện này người dân Việt Nam các cấp và mọi nơi đang rất muốn hiểu rõ
về những quan điểm và những quyết định của 16 người có quyền nhất, tức
là Bộ Chính Trị ĐCS Việt Nam. Muốn biết họ đã làm gì hay sẽ làm trong
tương lai gần. Về việc này đã có nhiều bài phân tích các loại, từ những
bài báo và blog của những nhà Bình Luận Việt Nam từ những bài của giới
“học giả” và “chuyên gia” về Việt Nam. Chúng ta có thể kết luận gì?
Trên cơ sở những gì được biết, nghe, và suy đoán, tôi thấy Việt Nam
hiện nay không chỉ là “sẵn sàng” mà là đang làm những bước đị có tính
quyết định để đối phó với tình hình mới. Tôi suy đoán BTC đã hiện này
còn sẵn sàng để kiện Bắc Kinh nếu không có một thay đổi lớn trong động
thái của nó. Và tôi biết BTC đang nỗ lực để nâng cấp mạnh mẽ những mối
quan hệ chiến lược mới với hai nước chủ chốt là Mỹ và Nhật. Tất nhiên
còn qua sớm để biết những việc trên sẽ có nghĩa gì. Dù vậy, tôi cũng như
nhiều người khác tin rằng đã và đang có một sự thay đổi rõ nét.
Về khả năng ‘giới bảo thủ’ chưa có muốn hay thay đổi hay chưa có đủ
dũng cảm để thay đổi tôi cũng có vài suy nghĩ. Cơ bản nhất là chủ quyển
của đất nước đang bị thắc thức trực tiếp. Thứ hai Việt Nam sẽ có nhiều
lợi về nhiều mặt nếu có những thay đổi thế chế. Khác so với trước, gần
như là không còn khả thi để giữ lập trường 4-16 một cách công khai.
Người Việt Nam ở khắp nơi đang rất bức xúc. Họ muốn một quan hệ mới với Trung Quốc. Họ muốn minh bạch ngay lập tức về mọi việc từ 1990 đến nay.
Ngành và hành động ngoại giao
Lĩnh vực ngoại giao của Việt Nam đang có những thay đổi quan trọng. Ngoài hàng loạt nỗ lực để bàn với Bắc Kinh, đã có những lúc làm cho chúng ta thấy Việt Nam đang thay đổi. Thích hay không thích Nguyễn Tân Dũng, bài của Ông ở Manila có một tình thần mới. Thích hay không thích, rõ ràng Việt Nam đã và đang nâng cấp quan hệ với hai ba nước trong và ngoài khu vực: Philippines, Nhật, và “đế quốc” Mỹ.
Lĩnh vực ngoại giao của Việt Nam đang có những thay đổi quan trọng. Ngoài hàng loạt nỗ lực để bàn với Bắc Kinh, đã có những lúc làm cho chúng ta thấy Việt Nam đang thay đổi. Thích hay không thích Nguyễn Tân Dũng, bài của Ông ở Manila có một tình thần mới. Thích hay không thích, rõ ràng Việt Nam đã và đang nâng cấp quan hệ với hai ba nước trong và ngoài khu vực: Philippines, Nhật, và “đế quốc” Mỹ.
Trong những tháng 5, 6, 7 có nhiều người nghi ngờ về sự chậm phát
triển của mối quan hệ Việt-Mỹ. Còn ai vẫn nghĩ thế? Những suy đoán mãi
về Việc Phạm Bình Minh đã hoãn lại chuyến đi, trong khi đó Ông Phạm
Thanh Nghị lại sang Mỹ có vể là không còn quan trọng lắm. Quan trọng là
những thảo luận giữa ĐCSVN và Hoa Kỳ mạ đang xảy ra ngay vào những ngày
nay là những thảo luận hứa hẹn nhất trong lịch sử của hai nhà nước.
Chúng ta có ly do để hy vọng sự phát triển của những mối quan hệ song
phương sẽ tạo ra những cơ hội tốt cho Việt Nam để đề cập và giải quyết
những vấn đề về thể chế mà đến nay vẫn cứ là rào cản ngăn chận con đường
của Việt Nam tiến tới một vị trí mạnh hơn. Những thảo luận giữa Việt
Nam và Mỹ, Việt Nam và Nhật, v.v… không phải là chỉ “có khả năng” để
mang lại thay đổi, nó đang tác động sâu sắc đến toàn khu vực.
Về mặt quân sự
Chuyến
đi sang Việt Nam của Tướng George Martin, sĩ quan cấp cao nhất trong cả
lực lượng vũ khí Mỹ và là Chủ tịch chỉ huy Tổng tham mưu trưởng Liên
quân Hoa Kỳ là dấu hiệu mới nhất là những quan hệ quân sự giữa hai nước
chứng tỏ đang có những biển đổi nhanh và sâu. Đối với động thái của phía
Việt Nam, còn chưa rõ. Những mặt bề ngoài chưa chắc có ích gì trong
việc nắm hiểu tình hình. Lấy ví dụ, sự miễn cưỡng của những đại tướng
Việt Nam để nói mạnh hay nhảy một cách công khai vào một trận đương đầu
với Bắc Kinh chưa chắc là khôn ngoan. Đồng ý, riêng về mặt quan hệ quốc
tế Thượng Tướng Nguyễn Chị Vịnh là chuẩn hơn.
Trong những tháng tới, chúng ta sẽ thấy Mỹ xóa một số ràng buộc trong cấm vận vũ khí đối với Việt Nam (đọc bài tiếng Anh ở đây).
Thực ra, việc toàn khu vực đang rơi vào một quá trình quân sự hóa là
rất đáng buồn về nhiều mặt. Ít nhất nó phản ánh sự thực là niềm tin
trong khư vực đã mất đi cực nhanh và hàm ý những số tiền khổng lổ sẽ bị
trệch đi từ những mục đích phục vụ dân sự. Song, làm gì khi nước láng
giềng có những động thái thực sự táo bạo bằng vũ lực như hiện nay?
Kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta thấy những nguy cơ và cơ hội rõ hơn.
Có bạn nhận định, những hành vi và thái độ của Bắc Kinh đã bắt buộc
giới lãnh đạo Việt Nam xem xét phương hướng lâu dài của nền kinh tế.
Trong những tháng qua cho đến này, những nhà phân tích nhà kinh tế của
Việt Nam (trong và ngoài nước) đang tìm hiểu những vấn đề này qua nhiều
mặt. Cho đến nay, quan hệ kinh tế giữa hai nước đã mang lại cả những
nguồn lợi quan trọng lẫn những chuyện không hay. Bên cạnh những nỗ lực
để không cho phép những căng thẳng trên biển tắc động xấu đến quan hệ
kinh tề, cần có và đang có những phương án cặn kẽ khác nhau để kịp đáp
ứng cho mọi kịch bản.
Ở đây xin chia sẻ ba quá trình quan trọng mà đang tiếp diễn. Một,
trong bối cảnh hiện nay, giới lãnh đạo Nhật Bản đang xem xét lại chiến
lược kinh tế khu vực về mặt lâu dài. Mất an ninh, mất tự do đi lại trên
những biển Đông Á và Đông Nam Á là một đe dọa cực lớn đối với cả nước
Nhật, Hàn Quốc, và Philippines và quá đó, và là một sự đe dọa mà Mỹ sẽ
không thể nào bỏ qua. Đã đến lúc phải có những cải cách kinh tế thực tế.
Cứ tiếp tục nói “đổi mới” là không đủ vào thời điểm lịch sử này.
Xã hội dân sự và “Phạm vi công”
Một nhà nước dân chủ và văn minh là một nhà nước là hết sức nghiêm
túc trong việc bảo vệ và thúc đẩy những quyền con người. Hiện nay là lúc
đất nước Việt Nam sẽ phải bắt đầu phát triển một nhà nước như thế. Khác
so với trước, có những khuyến khích mạnh để tập trung vào việc ấy. Quan
trọng ở đây không chỉ là “chấp nhận” xã hội dân sự mà là bảo vệ và tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nó, làm cho nó phát triển một
cách đa dạng, phong phú, thành một sức mạnh của đất nước.
Nói thế có quá lạc quan? Cũng có thể và cũng có thể không. Những thái
độ và hành động đàn áp còn chưa được xóa. Những tù nhân lương tâm còn
chưa được thả. Mặt khác, trong những tháng vừa rồi sự phát triển của cái
gọi là “phạm vi công” (public sphere) đã có những dấu hiệu hứa hẹn, từ
những thư ngỏ của các Đảng viên kỳ cựu cho đến sự thành lập của Thời Báo
Việt Nam Độc Lập. Trong những tuần tới chúng ta có thể chờ đợi xem
những ai được thả nữa. Nếu không có ai thì …. thôi… lại phải… chờ xem.
Trên đường dân chủ hóa, trật tự xã hội là một yếu tố quan trọng.
Trong một xã hội văn minh, một người như Trần Nhật Quang hay Đỗ Thị Minh
Hạnh đều có quyền để bày tỏ quan điểm của họ một cách ổn hòa và cũng
không có quyền để lạm dung quyền của bất cứ ai cả. Hành vi đàn áp là
hành vi phong kiến và lỗi thời cần phải xoá bỏ. Hãy thay đổi một cách
làm cho thế giới xem Việt Nam là một nước đang thay đổi, một nước nên
thông cảm và ủng hộ.
Liệu có cách nào cho những thành viên của xã hội dân sự ở Việt Nam
được tuyên bố một cách công khai những cam kết của họ để cho chính quyền
biết, dù có những bất đồng cần phải bàn thảo, cùng quyết tâm giữa trật
tự và tuyết đối bác bỏ mọi hành vi bạo động. Liệu có cách nào để Nhà
nước tuyên bố sẽ có một cuộc đối mới thực sự trong việc bảo vệ và thúc
đầy quyền con người? Như chính N. Mandela đã nói: Mọi sự có vẻ như bất
khả cho đến khi nó xảy ra.
Kết luận
Trong những tháng qua đã có nhiều người ở khắp nơi, từ mọi thành phần
nói hay cảm thấy xã hội của đất nước ‘phải thay đổi.’ Thực ra, Việt Nam
hiện này chắc chắn là đang thay đổi; thay đổi để thích nghi với một môi
trường chiến lược mới.
Đáng tiếc, cho đến nay, chúng ta còn quá hạn chế trong việc hiểu rõ
về những thảo luận đang tiếp diễn ở những cấp cao nhất của nền chính trị
đất nước. Trong khi đó, còn quá sớm để đánh giá tầm quan trọng của
những thay đổi mà đã, đang, và sẽ tiếp diễn. Song, Việt Nam của hôm này
là rất khác so với Việt Nam của đầu tháng 5. Tôi thậm chí dám khẳng định
vào thời điểm lịch sử đặc biệt này, Việt Nam có những cơ hội tốt để
xoay trục tới một tương lai thực sự độc lập, dân chủ, và tự do.
JL Hồng Kông