Đôi lời của BTV Basamnews: Đây
là phần phỏng vấn Trung tá Hải quân VNCH Nguyễn Mạnh Trí, do TS Trần
Đức Anh Sơn, Trưởng đoàn HTV, thực hiện hôm 24-04-2013, tại quận Cam,
California.
Trung
Tá Nguyễn Mạnh Trí là sĩ quan Hải quân khóa 10, trong số 26 khóa Sĩ
quan Hải quân, được đào tạo tại trường Sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Ông
tốt nghiệp SQHQ năm 1962. Hiện ông đang sống tại quận Cam, California,
và là người điều hành trang mạng tranhchapbiendong.com
Rất
tiếc, bộ phim này thiếu hai nhân vật khá quan trọng, đó là cựu Phó Đô
đốc Hải quân VHCH, người đã chỉ huy trực tiếp trận Hải chiến Hoàng Sa
ngày 19-01-1974 và cựu Trung tá Hải quân VNCH, hạm trưởng một chiến hạm,
đã tham gia trận Hải chiến Hoàng Sa. Hai ông đã từ chối trả lời phỏng
vấn Đài Truyền hình TP, do có nhiều quan điểm bất đồng với phía chính
phủ CSVN về vấn đề chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông.
-----------
Đạo diễn: Lâm Thành Quí


Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Chào mừng đồng bào quốc nội!
HTV: Để bảo vệ cho hành động xâm lược quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam, Trung Quốc thường viện dẫn công hàm do ông Phạm Văn Đồng,
Thủ tướng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký vào năm 1958 công nhận
về chủ quyền lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, coi đó là văn bản pháp
lý của Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và các đảo trong biển Đông. Vậy ông đánh giá thế
nào về nội dung và tính pháp lý của Công hàm 1958 này?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Chúng ta cần phân tích công hàm này trên hai phương diện Nội dung và Pháp lý.
Về
nội dung, công hàm này rất ngắn gọn, chỉ tuyên bố “Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9
năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của
Trung Quốc” và “có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc”. Công hàm này không nói gì về Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt pháp lý thì trong thời điểm 1958, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Việt Nam Cộng Hòa là 2 quốc gia có chủ quyền riêng biệt và Hoàng Sa
cũng như Trường Sa trực thuộc VNCH. Một quốc gia này không có thẩm quyền
pháp lý khi bàn về chủ quyền của một quốc gia khác.
HTV: Được biết ông là một người quan tâm đến trận hải chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa chống lại sự xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19/4/1974, xin ông cho biết về quá trình tham chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và những diễn biến chính của sự kiện bi hùng này?
HTV: Được biết ông là một người quan tâm đến trận hải chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa chống lại sự xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19/4/1974, xin ông cho biết về quá trình tham chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và những diễn biến chính của sự kiện bi hùng này?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Trước hết, tôi xin nói đôi
chút về địa lý Hoàng Sa . Trong thời gian gần đây, Trung Quốc
tuyên truyền rất nhiều về thành phố Tam Sa như mở tuyến du lịch, phát
triển hạ tầng cơ sở cũng như tăng cường quân sự để chỉ huy toàn thể Biển
Đông. Thật sự, quần đảo Hoàng Sa chỉ gồm 2 nhóm. Phía Đông là nhóm Tuyên
Đức mà đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, diện tích chỉ khoảng 2 km² với 1phi
đạo dài 1,500 km, không có nước ngọt, phải tiếp tế từ Hải Nam. Phía Tây
là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết mà đảo lớn nhất là đảo Pattle
(Hoàng Sa) diện tích chỉ khoảng 0.3 km².
Trong thời gian 1962-1964, tôi phục vụ ở Hạm Đội, có 1, 2 lần ra Hoàng Sa tiếp tế và thay quân.
Năm 1973, tôi trở lại Hạm Đội, ra công tác ở Trường Sa khoảng hơn 2 tháng, có lên đảo Nam Yết và Song Tử Tây.
Cuối tháng 11/1973, Đại tá Hà Văn Ngạc và tôi được lệnh ra Đà Nẳng
tăng cường cho V1DH vì tình hình căng thẳng tại Hoàng Sa. Trong tháng
12/1973 và đầu tháng 1/1974, Trung Quốc gia tăng hoạt động tại Hoàng Sa.
Trước khi nói về trận Hải chiến Hoàng Sa, tôi xin nói đôi chút về tương quan lực lượng:
Trong thập niên 70, Hải quân Trung Quốc, phần lớn mua hay đóng dựa
theo thiết kế của Liên Xô, tàu nhỏ nhưng khả năng chiến đấu khá tốt. Tàu
nhỏ, tốc độ nhanh, vận chuyển dễ dàng, hỏa lực khá mạnh.
Trong khi đó hải quân VNCH, nhận viện trợ từ Hoa Kỳ, gồm có các chiến
hạm và tàu tuần duyên từ Đệ 2 Thế Chiến, chỉ dùng cho việc tuần tiễu.
Hải quân VNCH có 2 khu trục hạm, hỏa lực mạnh với 2 khẩu 76 ly bắn
nhanh, có hệ thống khóa mục tiêu nhưng trong giai đoạncuối cùng của cuộc
chiến không có vật liệu thay thế. Các tuần duyên hạm có khả năng chịu
sóng rất mạnh nhưng cồng kềnh chỉ dùng cho việc tuần tiễu và cấp cứu.
Hải quân hai nước đều không có kinh nghiệm hải chiến.
Ngày 16/1/1974, Tổng thống Thiệu ra thăm V1DH ra lệnh cho hải quân
được dùng mọi phương tiện, kể cả vũ lực để trục xuất tàu Trung Quốc ra
khỏi Hoàng Sa .
Đại tá Ngạc, đang đi phép tại Sài Gòn, được lệnh khẩn cấp trở ra Đà
Nẵng. Ngày 17/1, ông cùng HQ 5 và HQ 10 ra tăng viện cho HQ 4 và HQ 16
đang bị áp lực nặng nề từ phía Trung Quốc.
Chiều ngày 18/1, 4 chiến hạm VHCH và 6 chiến hạm Trung Quốc gồm có 4
tàu hộ tống 271, 274, 389, 396 và 2 tàu chở quân 402, 407 vờn nhau
trong vùng lòng chảo Hoàng Sa. Tối 18/1, 4 chiến hạm VNCH được lệnh rút
ra ngoài, chuẩn bị chiến đấu vào ngày mai. Vào sáng ngày 19/1, khi các
chiến hạm VNCH vào thì các chiến hạm TQ đã chờ sẵn, hai bên ở rất gần
nhau, HQ 10 chỉ cách tàu địch trên dưới 1 ngàn thước. Khoảng 10 giờ sáng,
trong lúc tôi đang có mặt tại Trung tâm Hành quân thì Đô đốc Thoại cho
lệnh khai hỏa. Đại tá Ngạc còn mở máy âm thoại để phòng hành quân theo
dõi diễn tiến trận đánh. Nửa giờ sau đó là cả một sự hỗn loạn trên máy
âm thoại: tiếng ra lệnh, tiếng đạn nổ, tiếng reo hò của thủy thủ đoàn
khi tàu địch trúng đạn. Khoảng 45 phút sau, liên lạc âm thoại bị gián
đoạn, cả một sự im lặng đến rợn người trong phòng hành quân V1DH. BTL
vùng không còn liên lạc được với 4 chiến hạm. Khoảng 2h chiều, TTHQ mới
liên lạc được với HQ16. HQ 16 cho biết bị trúng đạn, nghiêng 15° nhưng
thoát được ra ngoài, cho biết HQ10 bị trúng đạn ngay phút đầu giao
chiến, bất khiển dụng tại chổ. Độ 1 giờ sau, phòng hành quân liên lạc
được với HQ 4 và HQ 5 cho biết bị hư hại nhẹ. Cả ba chiến hạm về lại Đà
Nẵng vào ngày 20/1.
HTV: Thưa ông, vì sao quân lực Việt Nam
Cộng Hòa đã không giữ được Hoàng Sa trong sự kiện ngày 19/1/1974? Có
phải do sự chênh lệch của tương quan lực lượng giữa chúng ta với kẻ thù
hay còn vì lý do nào khác? Có phải chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã
không tiên liệu được việc Trung Quốc sẽ đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974
nên đã không cảnh giác đúng mức cần thiết, vì thế chúng ta đã lâm vào
thế bị động và để mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Vào cuối năm 1968, Hoa Kỳ
đã để lộ ý định muốn chấm dứt cuộc chiến Việt Nam và tạm thời hòa hoãn
với Trung Quốc để đối đầu với Liên Sô. Cả hai miền Việt Nam đều chưa
hiểu được vị trí chiến lược của Hoàng Sa trong tương lai. VNCH chỉ gởi
ra Hoàng Sa một đại đội Địa phương quân. Hải quân VNCH cũng không tuần
tiễu thường trực tại Hoàng Sa. Trong khi đó, sau khi đạt được thỏa thuận
ngầm với Hoa Kỳ không can thiệp ở Hoàng Sa, Trung Quốc chuẩn bị xâm
chiếm Hoàng Sa ở cấp bậc cao nhất. Tài liệu đã giải mật của ông Gerald
Kosh, người đã theo HQ5 ra Hoàng Sa cho thấy Trung Quốc đã huấn luyện đổ
bộ từ tháng 7/1973 và Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình và Bộ Chính Trị đã
đích thân chỉ huy trận đánh. Hạm đội Nam Hải gồm mấy chục chiến hạm đã
túc trực sẵn giữa Hải Nam và Hoàng Sa .
Thành thử, nếu hải quân VNCH không khai hỏa vào sáng 19/1 thì không
sớm thì muộn Trung Quốc cũng tìm cách đẩy hải quân VNCH ra khỏi Hoàng
Sa. Quyết định khai hỏa đã chứng minh chủ quyền của VNCH tại Hoàng Sa. Các
chiến sĩ VNCH đã chiến đấu và hy sinh tại Hoàng Sa năm 1974 cũng như
các chiến sĩ trong trận chiến biên giới 1979 và trận hải chiến tại
Trường Sa 1988 để bảo vệ đảo Gạc Ma đều là anh hùng dân tộc, đáng được
đồng bào quốc nội cũng như hải ngoại tri ân.
HTV: Thưa ông, ông có thể cho biết về
thái độ và hành động của Hoa Kỳ trong đối với trận hải chiến Hoàng Sa
ngày 19/1/1974? Ông đánh giá thế nào về vai trò của Hoa Kỳ trong sự kiện
này?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Trước trận hải chiến Hoàng
Sa 1974, hạm đội Hoa Kỳ vẫn còn ở vịnh Bắc Việt. VNCH yêu cầu hải quân
Hoa Kỳ lập một “Buffer zone” nhưng không được trả lời. Sau đó, khi được
yêu cầu giúp đỡ tìm kiếm bè đào thoát từ HQ 10, hải quân Hoa Kỳ cũng
không tham dự.
Nhưng điều này không có nghĩa là tình hình 1974 giống như tình hình
hiện nay. Quyền lợi của các đại cường Hoa Kỳ-Trung Quốc-Nga Sô không bao
giờ thay đổi, quan niệm bạn thù chỉ là giai đoạn. Quyền lợi của Hoa Kỳ
và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đi song song với nhau. Dù rằng vẫn
còn nhiều trở ngại nhưng những người lãnh đạo 2 nước phải cố gắng biến
trở ngại thành cơ hội để tiến tới một thế liên minh chiến lược.
HTV: Thưa ông, xin ông cho biết đánh giá
của ông về biến cố này và ý nghĩa của biến cố này trong lịch sử đấu
tranh và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam? Theo ông, Việt
Nam cần có chiến lược và hành động như thế nào để bảo vệ chủ quyền biển
đảo của Tổ quốc và tránh những mất mát đáng tiếc như đã xảy ra đối với
quần đảo Hoàng Sa?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Biển Đông là một phần
trong sự đối đầu toàn diện giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Hoa
Kỳ, các cường quốc Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc), Ấn Độ, Úc Đại Lợi và
ngay cả Nga Sô và Liên Âu cùng 5 nước Đông Nam Á liên hệ trên mọi phương
diện chính trị-ngoại giao, kinh tế-tài chánh-thương mại và quân sự.
Biển Đông nắm giữ quyền lợi sinh tử của Trung Quốc về tài nguyên về
dầu khí và hải sản và là yết hầu di chuyển nhiên liệu từ Trung Đông sang
Bắc Á. Trung Quốc cố gắng chiếm Biển Đông bằng mọi cách cho đến khi bị
chận lại.
Chiến lược quân sự của Việt Nam phải đi song song với mặt trận ngoại
giao, kinh tế. Trong thời gian gần đây đã có những cố gắng để tăng cường
phòng thủ như mua Su-30 MKV, hỏa tiễn phòng thủ bờ biển, tàu khu trục
Gepard 3.9, tàu ngầm Kilo, phi cơ tuần tra nhưng điều quan trọng nhất là
đừng để Trung Quốc dụ vào thế đối đầu để chiếm thêm các đảo tại Trường
Sa. Hệ thống phòng thủ chỉ được dùng để phản công khi tối cần thiết. Du
kích chiến trên biển có thể áp dụng tại Hoàng Sa. Các ngư dân miền Trung
đang ở tuyến đầu trong mặt trận này. Họ xứng đáng nhận được sự tri ân
của toàn dân cả nước. Chiến tranh phi quy ước trên Biển Đông vẫn còn
hiệu lực để đối đầu với nước mạnh hơn. Cuối cùng thì một thế liên minh
quân sự chiến lược với Hoa Kỳ, các cường quốc Đông Á (Nhật Bản, Ấn Độ,
Úc Đại Lợi) và các quốc gia liên hệ tại Đông Nam Á (Việt Nam và
Philippines) chỉ là vấn đề thời gian.
HTV: Ông có ý kiến gì để tăng cường sự
hiểu biết của đồng bào quốc nội và hải ngoại về Tranh chấp Biển Đông,
nhất là tình hình tại Trường Sa?
Trung tá Nguyễn Mạnh Trí: Hiện nay, sự hiểu biết của
đồng bào quốc nội và hải ngoại về Hoàng Sa và Trường Sa tương đối hạn
hẹp. Nếu chúng ta tổ chức được những buổi triển lãm về tình trạng chiếm
đóng Biển Đông thì đó là điều đáng làm.
Nguyễn Mạnh Trí