Nguyễn Quang A
Sau nhiều lần định hoãn, sáng 16-4-2014 Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đã bắt đầu xử vụ án “điểm” được cho là rất phức tạp và gây ra
những hậu quả nghiêm trọng liên quan đến nhiều cựu lãnh đạo ngân hàng
ACB. Đến chiều Tòa tuyên bố hoãn xử.
Hai cán bộ của công ty Đầu tư ACB Hà Nội và ông Kiên bị truy tố về
tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 7 cán bộ cấp cao của ngân hàng ACB (có
cả ông Kiên) bị truy tố về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”; riêng ông Nguyễn Đức
Kiên, người được cho là chủ mưu, ngoài 2 tội danh trên còn bị truy tố
thêm 2 tội nữa: “kinh doanh trái phép”; và “trốn thuế”.
Lưu ý rằng công ty Đầu tư ACB Hà Nội không phải là công ty con của
ngân hàng ACB, mà chủ yếu là của ông Kiên. Công ty này đã phát hành trái
phiếu (tức là vay tiền của người mua trái phiếu, chính là ngân hàng
ACB) để có tiền mua cổ phần của công ty khác (thép Hòa Phát). Ông Kiên
và 2 cán bộ bị truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vì đã mang
bán 20 triệu cổ phiếu của Hòa Phát trong số 22 triệu cổ phiếu đã được
thế chấp ở ngân hàng ACB nhằm chiếm đoạt 264 tỷ đồng. Nếu ông Kiên không
xù nợ và ACB không khiếu nại, thì việc này khó có thể coi là lừa đảo.
Tội kinh doanh trái phép liên quan đến việc kinh doanh vàng của công
ty B&B của ông Kiên. Tội trốn thuế là do công ty B&B đã ủy thác
cho bà Hương và bà Hương được lời thay cho B&B được và phải đóng
thuế (lách luật để bà Hương hưởng lời, còn công ty lời ít đi và làm thất
thu thuế 25 tỷ đồng theo cáo trạng).
Tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng” liên quan đến quyết định của ACB ủy thác cho nhân
viên gửi tiền cho Ngân hàng Công thương và bị Nguyễn Thị Huyền Như chiếm
đoạt (vụ Huyền Như đã xử và những người gửi tiền đang khiếu nại Ngân
hàng Công thương phải trả cho họ tiền đã gửi và lãi).
Hậu quả của những việc kinh doanh lòng vòng, nhất là mua cổ phần của
các ngân hàng, đã tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng liên quan đến sở hữu
chéo, nợ xấu và đạo đức hành nghề ngân hàng. Những hậu quả là có thực
và hệ thống ngân hàng đang phải khắc phục. Tuy nhiên, việc đánh giá các
hành vi kinh doanh như vậy có cấu thành tội hình sự hay không, thì lại
là chuyện khác.
Tại Việt Nam người ta thường hay lên án những người “lách luật,” tức
là tận dụng những kẽ hở của luật để kiếm lợi cho mình. Chúng ta có thể
lên án những người đó về mặt đạo đức, nhưng tuyệt nhiên họ không phạm
bất cứ tội nào vì họ đã làm đúng theo quy định của luật, thậm chí họ còn
giúp nhà nước phát hiện ra những lỗ hổng pháp lý để sửa và hoàn thiện
luật (tức là có công phản ánh sự yếu kém của luật). Trong trường hợp như
vậy lỗi là ở những người làm luật, làm chính sách, chứ không phải những
người bị cho là “lách luật”.
Tội “cố ý làm trái định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” cũng gần tương tự như “lách luật.” Nếu quy định của nhà
nước là cấm mà làm trái, thì rõ ràng có tội. Nếu quy định của nhà nước
không cấm, nhưng cũng chẳng cho phép, thì họ cũng chẳng phạm tội. Nếu họ
làm trước và sau đó nhà nước mới cấm thì họ cũng vô tội. Cái tội ở đây
là ở sự mập mờ của luật pháp. Tội “kinh doanh trái phép” cũng có thể bị
tranh cãi nếu pháp luật không cấm một cách tường minh.
Như thế, vụ án này không phức tạp như người ta nghĩ và cũng đã chẳng
gây ra hậu quả lớn đến vậy giá như luật pháp tốt hơn. Có lẽ vài người
làm luật kém đã muốn nó là án điểm nên mới khiến dư luận xôn xao và biến
nó thành phức tạp.