Trần Văn Chánh
Sinh thời, vào năm 2005, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi nhắc lại
chiến thắng nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4 năm đó, đã từng viết mấy câu chí
tình chí nghĩa: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại,
có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết
thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho
nó thêm rỉ máu”. Ý tưởng nhân hậu này vừa nêu lên đã được hầu hết
mọi người dân Việt cả trong lẫn ngoài nước, không phân biệt thành phần
lý lịch hay xu hướng ý thức hệ, coi như bản tuyên ngôn ngắn gọn có ý
nghĩa sâu sắc về tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, vốn là một trong
những yêu cầu quan trọng tiên quyết và bậc nhất để kiến thiết xứ sở. Bởi
một lẽ đơn giản, đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết. Ngoài ra nó còn
thể hiện sâu sắc tình tự dân tộc, coi chiến tranh đổ máu là chuyện bất
đắc dĩ và phần lớn đều do những gọng kiềm lịch sử khắc nghiệt gây nên
chứ không ai là người Việt Nam máu đỏ da vàng mà lại muốn như thế.
Cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt ngày 30.4.1975 lùi xa vào dĩ
vãng đã tròn 39 năm. Với bằng ấy thời gian, bên cạnh niềm tự hào đương
nhiên của “bên thắng cuộc”, trong lương tâm mỗi người vẫn còn đọng lại
không ít những niềm trăn trở, suy nghĩ, từ đó thấy cần đánh giá lại vấn
đề một cách toàn diện hơn, cũng như cần đi sâu vào những góc cạnh chi
tiết tế nhị hơn, liên quan đến một số sự kiện hoặc con người cụ thể,
trong bối cảnh lịch sử hết sức đặc thù của dân tộc. Ở đây, và trong
những khoảnh khắc thời gian này, chúng ta muốn nhắc đến nhân vật lịch sử
Dương Văn Minh, người thuộc “bên thua cuộc” của chiến tuyến đối lập,
nhưng nếu xét trên phương diện quyền lợi chung của cả dân tộc thì ông
lại là người bạn, người đồng chí chân tình của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Chắc chắn vì thế mà sau 1975, hai ông vẫn giữ mối liên lạc thân thiết
khá thường xuyên, theo cách quý trọng lẫn nhau giữa những người quân tử
cùng lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục đích tối thượng.
Trong chiều hướng suy nghĩ cởi mở như trên, dần dần ai cũng phải
thừa nhận, một trong những nhân vật lịch sử thuộc phe bại trận nhưng có
vai trò quan trọng, gắn liền với ngày 30.4 lịch sử, có lẽ là ông Dương
Văn Minh, người đảm đương chức vụ tổng thống chỉ trong vòng 3 ngày trước
khi chế độ cũ Sài Gòn bị tan rã.
Các tài liệu đã được phổ biến từ nhiều năm nay, đại khái đều ghi
chép: 15 giờ chiều ngày 28.4.1975, sau khi có quyết định của lưỡng viện
Quốc hội trong tình hình khẩn cấp, tướng Dương Văn Minh làm lễ nhậm chức
Tổng thống, cử ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu
làm Thủ tướng. Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm một số bộ trưởng và
người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó chỉ định ông Bùi Tường
Huân, Giáo sư Đại học Huế (gốc dân sự, không phải tướng tá) làm bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, như một cách để chứng tỏ chính phủ của mình không
muốn cuộc chiến tranh tiếp diễn.
Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Những ngã rẽ, hồi ký, chưa
xuất bản), đêm 28.4.1975, có hai đại tá phi công lái hai máy bay trực
thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, đến gặp Tổng thống
Dương Văn Minh đề nghị đưa ông và tất cả những người trong bộ tham mưu
Tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em
có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây
muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ
bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam
như con rắn mất đầu”.
Sáng sớm ngày 29.4.1975, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền đã cử 4
người gồm Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng), Nguyễn Hữu Hạnh (nhà thầu), Tô
Văn Cang (kỹ sư, cán bộ tình báo Z22), Nguyễn Đình Đầu vào trại David
tiếp xúc với đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam về việc ngưng bắn. Tiếp đến, khoảng 15 giờ (có tài liệu nói
19 giờ) cùng ngày, Tổng thống Dương Văn Minh lại cử một phái đoàn do
Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu cùng đi với Linh mục Chân Tín và Giáo sư
Châu Tâm Luân vào Trại David, cả ba người được ông Võ Đông Giang, Phó
trưởng phái đoàn phía Cách mạng ra tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái
đoàn về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh.
Ngày 30.4.1975, lúc 6 giờ sáng, sau khi nghe chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng
khi ấy đã bỏ trốn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo về toàn bộ tình
hình quân sự, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7
Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền,
Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các mới lập, họp bàn và
quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu phụ trách soạn thảo bản tuyên bố này.
Đến 9 giờ 30 ngày 30.4.1975, Đài phát thanh phát lời tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng
tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để
thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu
vô ích cho đồng bào”.
Hai giờ sau, lúc 11 giờ 30, xe tăng của quân giải phóng vào Dinh
Độc Lập, đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để
đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Có quan điểm khá phổ biến cho rằng ông Minh tuyên bố đầu hàng đơn
giản chỉ vì hoàn toàn thất thế, không còn cách nào khác. Nhưng theo ông
Lý Quý Chung (bộ trưởng Bộ Thông tin trong nội các Dương Văn Minh, tác
giả Hồi ký không tên), và nhiều nhân vật thân cận khác, tướng
Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với phe
cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý
để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông vốn chủ trương hoà bình, chấm dứt
chiến tranh.
Ngày nay, nhìn kỹ lại diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều
thừa nhận việc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông quyết định
“không chống cự”, sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” là hành động
thức thời, tránh cho nhân dân và chiến sĩ của cả hai phe không bị đổ máu
thêm vô ích, tài sản quốc gia không bị hủy hoại, góp phần kết thúc sớm
cuộc chiến tranh một cách êm đẹp. Đó là nghĩa cử anh hùng của một người thật sự yêu nước, thương dân, có phần nào thầm lặng chứ không phô trương khoe mẽ nổi đình nổi đám.
Ý kiến coi ông Dương Văn Minh là người có công đối với đất nước đã
được cố thủ tướng Võ Văn Kiệt khẳng định trong một lần trả lời phỏng vấn
của tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân dịp 30.4.2005, về một
câu hỏi liên quan: “Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài
Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy,
tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và
các lực lượng chính trị đối lập… có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh
lúc bấy giờ”. Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt giải thích: “Đại tướng Dương Văn
Minh nhậm chức ngày 28.4.1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể
đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới
quyền ông "tử thủ", chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà
nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình
nữa.... Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được
tầm quan trọng của quyết định này”.
Sau ngày 30.4.1975, ông Minh được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự,
nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống một cuộc sống bình dị,
từ chối mọi sự giúp đỡ vật chất của chính quyền mới. Năm 1983, được
Chính phủ chấp thuận, ông sang Pháp chữa bệnh và thăm con, khi đi chỉ
xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Ông không nhờ vả gì Chính phủ
Pháp, mặc dù đã nhiều lần được sự gợi ý rất nhiệt tình.
Theo sự tiết lộ của ông Hồ Ngọc Nhuận (trong tập hồi ký Đời,
chưa xuất bản), người có những hoạt động gần gũi cả với ông Dương Văn
Minh lẫn ông Võ Văn Kiệt, thì trong một chuyến đi thăm chính thức
Algérie với tư cách thủ tướng, ghé ngang Paris trên đường về nước, ông
Kiệt có yêu cầu Tòa đại sứ Việt Nam tại Pháp tìm địa chỉ ông Minh để đến
thăm. Trong cuộc gặp, Thủ tướng Kiệt có ngỏ ý mời ông Minh về nước
nhưng ông từ chối vì chưa có sự thống nhất ý kiến giữa các con ông trong
gia đình. Sau đó, qua sự tác động và sắp xếp của Hồ Ngọc Nhuận, nhằm
mục đích tăng cường hòa giải giữa người Việt thuộc các thành phần khác
nhau, trong cũng như ngoài nước, ông Kiệt còn kín đáo gởi thư và cử
người thân tín sang gặp ông Minh tiếp tục đặt vấn đề, nhưng vì nhiều lý
do lắt léo phức tạp, ông Minh cũng không về lại quê hương được trong lần
đó, mà cuối cùng đã từ Pháp sang Mỹ ở với người trưởng nữ của ông cho
đến khi qua đời vào tháng 8 năm 2001, thọ 85 tuổi.
♦
Ngày nay, sau 39 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, bài
học rút ra được từ hai nhân vật lịch sử Dương Văn Minh- Võ Văn Kiệt có
lẽ không gì lớn hơn là bài học về hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng muốn
thật sự hòa giải, cần loại bỏ ngay khuynh hướng cường điệu khía cạnh
chiến thắng của ngày 30.4 lịch sử, mà chú trọng hơn vào khía cạnh hòa
giải hòa hợp dân tộc, và phải coi việc hàn gắn vết thương chiến tranh
qua thái độ hòa giải hòa hợp dân tộc như một thứ trách nhiệm lịch sử tự
nhiên phải làm chứ không có tính cách ban phát sự hòa giải cho phía
thua cuộc. Nếu khiêm tốn nhìn thẳng vào sự thật, chắc ai cũng biết
rằng dân tộc của chúng ta chỉ là nước nhỏ lạc hậu, lại bị chi phối bởi
những thế lực, âm mưu chính trị của một số cường quốc khác, nên khi
chiến thắng đừng tự hào quá đáng, cũng như không có gì xấu hổ khi thua
cuộc để phải mặc cảm kéo dài, trong điều kiện cả hai bên thực chất đều
đứng chung trong gọng kiềm khắc nghiệt của lịch sử mà nhiều việc mình
không thể chủ động được một cách hoàn toàn. Còn về những sự mất mát do
chiến tranh gây ra, cũng là mất mát chung, không đau buồn thì thôi chứ vui vẻ gì cứ tự hào mãi?
Cụ thể, từ nay trở đi, nên bớt những cuộc lễ nào mà có nhắc lại
những kỷ niệm không vui của thời kỳ chiến tranh đau khổ đã rơi vào dĩ
vãng quá xa, và loại trừ hết mọi sự phân biệt về lý lịch, thành phần,
dưới mọi hình thức, một cách thực chất chứ không chỉ hời hợt bề ngoài.
Đã có một số tín hiệu mới đáng mừng như vậy rồi. Con đường hòa
giải hòa hợp dân tộc khá gập ghềnh vì nhiều lý do ngoắt ngoéo tế nhị của
lịch sử gần đây đã có thêm những bước tiến cụ thể rất đáng ghi nhận.
Chẳng hạn, về cuộc chiến đấu chung bảo vệ hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa của Việt Nam những năm 1974, 1988 của binh sĩ cả hai bên chiến
tuyến. Trong đó, riêng trận đánh hi sinh dũng cảm của 74 chiến sĩ quân
đội Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 có thời gian dài
bị làm mờ nhạt, thì nay, sau gần 40 năm hòa bình lập lại, do sự diễn
biến thực tế của tình hình và của nhận thức ngày càng tiến bộ, cởi mở,
người ta đã bắt đầu công khai thừa nhận, thể hiện rõ nhất qua “Thư kêu
gọi ủng hộ chương trình Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” của Tổng liên
đoàn Lao động Việt Nam, công bố ngày 10.3.2014 vừa rồi. Các nhà đương
cuộc sau thời gian dài dè dặt tiện tặn cho “nhích từng chút” sự thật
lịch sử, nay đã mạnh dạn nhìn nhận sự thật khách quan một cách công khai
bằng giấy tờ hẳn hoi.
Tuy trễ vẫn còn hơn không. “Ai muốn chép công ta chép oán/ Công
riêng ai đó oán ta chung”, và nếu chịu xét cho cùng, việc ghi lại công
ơn những chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc của cả hai bên chiến tuyến trước
đây cũng là hình thức chép lại cái “oán ta chung” mà chịu giảm nhẹ đi
phần nào cái “công riêng ai đó”, thứ công riêng được lặp đi lặp lại mãi
mà chẳng lợi ích thiết thực gì cho việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc
để cùng nhau bảo vệ, xây dựng đất nước.
16.4.2014
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay, số 446, tháng 4.2014