Jonathan London      
 
              
 
        
    
    
      
  
Lịch sử xã hội không bao giờ mất đi sự quan trọng của nó mà lại 
không mất đi sự phức tạp. Muốn hiểu tình trạng của một xã hội đương đại 
bắt buộc phải hiểu một cách đầy đủ và sắc thái về con đường mà xã hội đó
 đã đi từ trước đến nay. Muốn đối phó với những thách thức lớn của hôm 
nay phải hiểu một cách sâu hơn về nguồn gốc của những thách thức đó.
Mặt khác, năng lực của chúng ta để đề cập những thách thức của hôm 
nay luôn luôn tồn tại trong vòng những hạn chế về thể chế và những cách 
suy nghĩ do chính lịch sử xã hội tạo ra. Hơn nữa, trong bất cứ xã hội 
nào luôn luôn có những thành phần muốn giữ hiện trạng của hôm nay chính 
vì họ được hưởng quyền lợi của hiện trạng đó.
Trong dịp ngày 30 tháng 4 năm 2014 tôi xin trân trọng đề nghị để hòa 
giải dân tộc, nhân dân Việt Nam ở hai bên phải đối mặt lịch sử theo một 
cách mới. Phải có đủ dũng cảm để thực hiện những bước đi cho đến nay vẫn
 chưa thực hiện được. Phải nhận ra rằng giải phóng thực sự cho toàn quốc
 Việt Nam sẽ chỉ có nếu toàn dân Việt Nam thực sự thống nhất về một số 
nguyên tắc thiết yếu do chính người dân Việt Nam và mọi người dân Việt 
Nam quyết định hay có sự ưng thuận thực sự của họ.
Trong 39 năm qua, đặc biệt là từ đầu thập kỷ 90, người dân Việt Nam ở
 khắp nơi (kể cả ở ngoài nước) đã thấy những thay đổi sâu sắc trong xã 
hội của đất nước mình. Từ một mô hình kế hoạch tập trung Việt Nam đã 
chuyển sang một mô hình dựa vào kinh tế thị trường. Từ một nước đói 
nghèo, Việt Nam đã lên đường công nghiệp hóa.
Rõ ràng sự phát triển của đất nước có nhiều yếu tố rất hứa hẹn bên 
cạnh những thách thức rõ nét. Vấn đề hòa giải là một trong những thách 
thức lớn đó. Cách trả lời câu hỏi này hoàn toàn phù thuộc vào quan điểm 
của mọi người đối với một câu hỏi lớn hơn nữa: Chúng ta muốn có một Việt
 Nam như thế nào?
Những lý do để ủng hộ một quá trình hòa giải ở Việt Nam được nói đến 
nhiều nhất chính là để mở rộng điều kiện của mọi người tham gia một cách
 tích cực vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên sự thực rằng chúng 
ta vẫn đang bàn, tranh cãi, và suy ngẫm về hòa giải ở Việt Nam sau gần 
40 năm kể từ ngày 30/4/1975 chứng tỏ rằng cách tiếp cận vấn đề hòa giải 
đến nay vẫn còn nông cạn và hoàn toàn chưa được.
Muốn có một quá trình hòa giải thực sự phải cam kết nỗ lực để đầy 
mạnh một “xã hội mở,” một “xã hội bao gồm” mà trong đó ai cũng đều có cơ
 hội để tham gia và không có việc bị loại trừ vì tư duy hay những tin 
tưởng của mình. Phải có những thể chế và hành vi dân chủ như TT Nguyễn 
Tấn Dũng đã nêu trong thông điệp đầu năm.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy vấn đề hòa giải chưa bao giờ là một 
chuyện đơn giản và không thể diễn ra theo hướng một chiều.  Muốn hòa 
giải phải có đủ dũng cảm chính trị để tưởng tượng và đấu tranh cho một 
tương lai khác hẳn với hiện nay.
- Có ai dám tưởng tượng rằng chính phủ Việt Nam và ĐCSVN sẽ gửi lời xin lỗi chính thức tới hàng triệu người ở bên thua cuộc bị xúc phạm hay phân biệt đối xử trong nhiều năm trong thời hậu chiến? (Có người bảo tôi chuyện đó không bao giờ có! Chưa chắc! Có ai dám tưởng tượng Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải ở Nam Phi?)
- Có ai dám tưởng tượng rằng chính phủ Việt Nam sẽ công nhận những bà mẹ (hay bà má) mất con cái trong chiến tranh ở bên thua cuộc cũng là những bà má anh hùng (nếu nghĩ về quá khứ vì nhiều thập kỷ chiến tranh của Việt Nam là một bi kịch lớn cho cả nước, cả dân tộc), và sẽ chu cấp cho họ một khoản tiền hàng tháng để công nhận cuộc chiến tranh của ngày xưa là một bi kịch cho toàn dân? (Trước khi loại trừ khả năng xin cho biết đã và đang có những nỗ lực ở một số cộng đồng ở miền nam Việt Nam để đề cập chính vấn đề này).
- Có ai ở bên thua cuộc chấp nhận dành thời gian để chia sẻ những bước đầu họ cần làm trong một quá trình hòa giải? Tham gia những bàn tròn trên TV về hòa giải? (Trước khi nói không nhớ YouTube còn hoàn toàn miễn phí.)
- Có ai ở cả hai bên thành lập một tạp chí do người đại diện cho các bên cùng biên soạn để đề cập những vấn đề phải đề cập? (Lập một trang blog có gì phức tạp đâu!)
- Có ai dám thành lập một quỹ chu cấp hòa giải hàng tháng? (Có quỹ Hoàng Sa rồi và nỗ lực đó có vẻ khá thành công)
- Có ai dám tưởng tượng sẽ có một lá cờ hòa giải mà những người ủng hộ hòa giải đều có thể treo trước nhà trong những năm tới để bày tỏ tình yêu nước và người anh chị em Việt Nam? (Có bao nhiêu người Việt Nam thật có tài về nghệ thuật, cần chờ gì nữa?)
- Có ai trong ĐCSVN dám nghĩ đến một cách công khai những cải cách chính trị mà có thể mang lại dân chủ thực sự ở Việt Nam? (Ông Nguyễn Tân Dũng đã phát biểu rất hay rồi, dù chưa thấy bước quyết định nào. Vì sao?)
Nếu câu trả lời là không và những đề nghị này là hoàn toàn vô lý và 
không khả thi thì chúng ta không nên nói về hòa giải nữa. Hãy để cho 
những vết thương cứ mãi mãi không lành, duy trì một Việt Nam bất hòa 
muôn năm. Một kết quả đáng buồn và đáng tiếc.
Tôi hiểu rằng đã qua một năm mà Quốc Hội Việt Nam (tức Đảng Cộng Sản 
Việt Nam) vẫn quyết định giữ nguyên hiện trạng và vì thế tâm trạng trong
 và ngoài nước đối với vấn đề hòa giải thì rõ ràng điều này là không 
được tốt lắm. Thậm chí có người đã khuyên tôi đừng nói đến hòa giải nữa 
vì đau quá.
Thuyết định mệnh không bao giờ là một con đường hứa hẹn. Mới hôm qua 
có một cựu bộ trưởng tuyên bố xã hội dân sự phải được chấp nhận và bảo 
vệ. Đó là một bước đầu hết sức hứa hẹn. Vì không có xã hội dân sự thì 
không thể nào có một quá trình hòa giải thực sự.  Phải hiểu rằng xã hội 
dân sự của Việt Nam là phức tạp. Nó không chỉ bao gồm những người ngoài 
bộ máy, mà còn có nhiều người có chân trong và ngoài bộ máy. Những người
 mà có đầu mà chưa thấy miệng vì những hạn chế và rủi ro cụ thể của họ.
Lịch sử không bao giờ quyết định tương lai. Nhưng những điều kiện của
 hôm nay – từ vật chất và thể chế cho đến cách suy nghĩ của chúng ta đều
 là sản phẩm của những quá trình lịch sử. ”Hội chứng chấn thương tâm lý”
 (PTSD) không chỉ xảy ra với bên thua cuộc mà là ở cả hai bên, từ những 
người dân thường đến những lãnh đạo các cấp.
Đó là một sự thật nước Việt Nam đã phải chịu đựng gần 40 năm trời 
nhưng vẫn chưa được công nhận. Những dấu hiệu của hội chứng này không 
chỉ xuất hiện ở khía cạnh tâm lý cá nhân mà về cả hành vi chính trị. 
Nhưng, khác so với rối loạn stress sau sang chấn thường loại, trường hợp
 của Việt Nam bao gồm cả xã hội, điều này đã và đang vẫn còn ảnh hưởng 
tiêu cực đến sự phát triển của đất nước.
Đã gần 40 năm rồi. Người dân Việt Nam muốn tạo điều kiện để mọi người
 tham gia một cách tích cực vào sự phát triển của đất nước, người Việt 
Nam phải nỗ lực để thực hiện một quá trình hòa giải cụ thể, không chỉ 
nói từ hòa giải.
Khác với đất nước Triều Tiên, Việt Nam không còn bị chia cắt nữa. 
Nhưng cũng khác so với Hàn Quốc hay Đài Loan, toàn dân Việt Nam thực sự 
chưa được thống nhất đối với những giá trị chính trị và dân sự thiết 
yếu. Chỉ khi mọi người dân Việt Nam từ mọi phía và mọi quan điểm chính 
trị đều thống nhất, như thế thì mới có giải phóng thực sự ở Việt Nam.
Có không ít người bảo tôi đặt quá nhiều niềm tin vào ĐCSVN một cách 
thái quá. Họ bảo: “Khi mà những cuộc biểu tình ôn hòa về vấn đề cướp đất
 của nông dân, vẫn bị trấn áp một cách thô bạo. Những người bất đồng 
chính kiến vẫn bị bỏ tù, thì làm sao có hòa giải được JL!?” Vâng, ai đã 
đọc những bài blog của tôi đều biết tôi đồng ý.
Thực sự tôi nghĩ gì về hòa giải ở Việt Nam? Tôi nghĩ rằng muốn hòa 
giải thì phải có dân chủ, dù dân chủ đó phải do chính người dân tạo ra. 
Tôi nghĩ rằng xã hội dân sự đang phát triển ở Việt Nam là lực lượng cần 
thiết để đạt được một quá trình hòa giải thực sự. Vì muốn hòa giải thì 
sẽ phải có sự tham gia của mọi người ở đủ các bên. Và tất nhiên, nếu 
muốn hòa giải thì nhân quyền sẽ phải được bảo vệ và thúc đẩy từ mọi 
phía. Đó chỉ là những ý kiến cá nhân của tôi.Sau cùng, để có một quá 
trình hòa giải và hòa hợp người dân Việt Nam sẽ cần phải có những hành 
động cụ thể.
Các bạn thân mến, khi viết những bài blog, một khó khăn tôi luôn luôn
 phải đối phó xuất phát từ việc phải viết cho nhiều đối tượng độc giả và
 nhiều người trong số họ có khả năng sẽ không đồng ý với nhau. Một dân 
tộc còn nhiều bất hòa chưa được giải quyết. Tôi biết khi viết về chính 
trị mình sẽ phải “khéo léo” một chút. Về mặt đó chắc là tôi chưa hoàn 
thiện. Tôi muốn tiếp tục làm việc ở Việt Nam và đóng một vai trò có tính
 xây dựng thông qua nghiên cứu và phân tích chính sách. Những bài viết 
như thế này cũng có chủ định xây dựng mà thôi….
Tôi không muốn mình sẽ phải viết một bài như thế này nữa vào năm sau,
 đúng dịp 40 năm. 40 năm là đã quá lâu rồi, đúng không ạ? Chỉ khi có hòa
 giải thực sự Việt Nam mới được giải phóng, các bạn có đồng ý với tôi 
không?
JL
Lưu ý: Dù có một số doạn văn như nhau, bài trên 
không phải là bài tôi đã gửi tới tờ báo Lao Động mà đã có một phần được 
đăng ngày 29/4. Bài này (trên) dài hơn nhiều và có nội dung tranh cãi 
hơn.

 
