Văn Việt: Lại sắp đến một ngày tháng 4 mà dưới
lớp hào quang một phía của nó, ta vẫn còn nghe tiếng thổn thức trái tim
bao nhiêu người mẹ Việt. Đau đớn thay, gần 40 năm trôi qua, câu chuyện
nhỏ mà nhà văn Dạ Ngân kể dưới đây vẫn còn là “vấn đề của hôm nay”. 40
năm sau, người “thắng”, kẻ “thua”, người sống, kẻ chết, cả hai đều là
con mẹ, mẹ yêu thương cả hai. Nhưng đứa con mà Mẹ Việt Nam trông đợi
phải thay đổi thái độ cư xử lâu nay khiến mẹ đau lòng chính là đứa còn
sống, đứa tốt số, đứa “thắng cuộc”.
Má tiễn đứa con trai đầu vào chiến khu khi nó mười tám tuổi. Không
cho đi cũng không xong. Nó bóc xóc, ăn ngủ không yên, bạn bè trang lứa
nườm nượp lên đường, ở nhà nó thấy nhục.
Đứa em trai út ít ở lại với má. Không lâu sau bom đạn thổi tạt hai
mẹ con má ra ven thành, trong một xóm tản cư trên bờ sông lở lói. Đứa út
rồi phải lớn, tránh bị bắt lính bằng cách khi có báo động thì treo mình
trốn dưới những sàn nhà trong xóm tản cư. Má giữ riệt nó bên mình, nhất
định phải có một đứa ở nhà với má!
Nó phải có căn cước và hộ tịch để đi lại cho đàng hoàng. Rồi phải
tặc lưỡi, tạm đi dân vệ, cầm súng lơ ngơ cũng được, miễn má được đỡ đần.
Một lần anh trai “độn thổ” trồi lên từ dưới sàn nhà, bắt gặp em vừa đi
tuần về, giận dữ tát em mình một cái nổ đom đóm rồi bỏ đi biền biệt. Má
khóc tấm tức, má thương cả hai đứa nhưng má không thể không giữ một đứa
bên mình.
Má cưới vợ sớm cho con trai út. Má cũng sớm có cháu nội trai như
mong ước. Một đêm tối trời, đứa con dân vệ trở về trên vai một người
đồng ngũ của nó. Má thấy như bị con trai lớn mình tát cho một cái, bà
thấy chưa, thấy chưa? Má nghĩ, chỗ nào cũng súng với đạn, chúng có chừa
ai ra mà biết bên nào còn bên nào mất, hở con?
Má với con dâu hì hục một chuyến tam bản, thuyết phục ba cái bót và
trạm cầu mới đưa được đứa con tử sỉ về chôn vội ở vườn cũ. Má ước gặp
anh nó ở nơi tự do oanh kích này. Nhưng má cũng sợ con trai quay lưng,
từ mặt. Có không chuyện con từ cha từ mẹ, dám lắm chớ, nó là đứa chỉ
biết có một đường, không tha thứ cho lối ngang lối rẽ. Anh em du kích
giúp má cái huyệt mộ và một nắm đất. Má cũng nghe nói con trai lớn thành
đạt ở trong Khu.
Tháng Tư năm Bảy lăm má khóc mừng khóc tủi. Người như bị xé làm đôi.
Con dâu đã bỏ má đi bước nữa từ trước. Má thắc thỏm cùng thằng cháu nhỏ
về lại vườn nhà. Con trai về qua, rạng ngời chiến thắng. “Bàn thờ này
má đặt ba thì được còn thằng dân vệ thì… Lúc nào có mặt con ở đây, má
làm ơn úp ảnh nó vô vách tủ nghen!”
Má lại khóc, hết khóc nhịn thì khóc lén. Lần nào giỗ chồng, má đều
nhớ úp ảnh con trai út vô trong, những khi đó mà nghe nó tủi, nó hờn, nó
uất, đủ cả, má nghe thấy mà, má là mẹ mà, má biết hết. Lỗi tại má, lỗi
tại má, biết bao lầm má đấm ngực nói với đứa con trai chiến thắng của
mình như vậy. Nhưng nó không chịu nghe, nó không chấp nhận bất kỳ lời
thanh minh nào.
Dĩ nhiên con dâu cả của má cũng thành đạt, con trai nó vênh vang và
nhà của chúng nó xênh xang. Hai đứa cháu cùng gọi má là nội nhưng là hai
số phận, đỏ và đen. Đứa cháu nông dân níu bà, níu mồ mả ông cha nên lầm
than, thất học. Lép một bề. Vợ con nó vì vậy mà cũng sẽ lép một bề, mãi
mãi. Nhiều lần riêng tư bà cháu, má hỏi, hồi đó mấy người bạn của ba rủ
con vượt biên mà con không nỡ đi, con có tiếc không? Nó mím môi lắc
đầu, nó cứ nhìn xuống đôi chân chai lì của mình lắc đầu.
Nhưng má thì cứ thế mà khóc.
Tác giả gửi Văn Việt