Hoa Hướng Nam 
  
Vào
 hậu bán thế kỷ 20, thế giới đã chứng kiến hai biến cố lịch sử: Ngày 
30.04.1975 Quân đội Nhân dân Việt nam (Bắc Việt) tiến vào Sài gòn, kết 
thúc cuộc chiến ủy nhiệm và mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước 
dưới một chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo. Ngày 09.11.1989 bức tường Bá 
linh sụp đổ, kéo theo sự tan rã của chế độ cộng sản Đông Đức và khai 
thông cho sự thống nhất nước Đức trong hòa bình, tự do- dân chủ 
  
Hai
 quốc gia Việt – Đức cùng mang số phận lãnh thổ bị phân chia sau chiến 
tranh vì mâu thẫu ngoại bang và sự khác biệt chính kiến về mô hình xây 
dựng xã hội giữa các thành phần dân tộc, nhưng cả hai lại theo đuổi mục 
đích tái thống nhất đất nước bằng phương thức khác biệt.
 
  
Việt Nam: Thống nhất đất nước bằng chiến tranh
  
Sau
 cuộc chiến chống Pháp (1945-1954) Việt Nam lẽ ra phải được độc lập, tự 
do, nhưng dưới sự dàn xếp của ngoại bang (Mỹ, Pháp, Trung Hoa và Liên 
xô) dân tộc đã phải chấp nhận chia đôi lãnh thổ tại hội nghị Geneve 
(Thụy sĩ ).
Hiệp định Geneve (21.07.1954) quy định các bên tham chiến
 phải ngừng bắn, giải giáp vũ khí. Việt Nam chia ra thành hai khu vực 
tập kết tạm thời cho hai bên đối địch. Vĩ tuyến 17 được xem là ranh 
giới, và một khu phi quân sự tạm thời được lập dọc theo hai bờ sông Bến Hải
 thuộc tỉnh Quảng Tri. Ngay sau ngày hiệp định được công bố có 892.876 
thường dân di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, trong khi 140.000 
người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc. 
  
Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do, dự trù thực hiện vào năm 1956, với lý do mà Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa ra là "nghi ngờ về việc có thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc".Tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tuyên bố sẽ "không bỏ qua một cơ hội nào để thống nhất Việt Nam trong tự do và hòa bình".
  
Vì VNCH không thực hiện tuyển cử, Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Hồ chí Minh quyết định phát động chiến tranh thống nhất đất nước bằng mọi giá .
  
Đối
 với các nhà lãnh đạo VNDCCH đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện cách
 mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng 
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mục tiêu 
vẫn còn dang dở sau 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
  
Tháng 8/1956, Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam" nhưng đến Hội nghị TƯ 15 năm 1959 mới được thông qua. Đề cương xác định rõ: "Nhiệm
 vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, 
phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam 
khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên 
hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một 
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân“.
  
Về
 phía các nhà lãnh đạo của Mỹ và VNCH, thì xem cưộc chiến thống nhất do 
VNDCCH chủ trương là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chính phủ Mỹ can thiệp vì muốn ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á (Thuyết Domino) và bảo vệ nhân dân Nam Việt Nam được sống trong hòa bình và tự do..
  
Ngày 20 tháng 12 năm 1960 thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) do những người cộng sản lãnh đạo.
  
Từ năm 1961 chiến tranh bùng nổ khốc liệt. Với chủ trương "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội"
 của đảng Lao động Việt Nam (cộng sản) quân đội VNDCCH dưới danh nghĩa 
quân giải phóng cách mạng đã phát động liên tiếp các đợt tiến công quy 
mô kết hợp đấu tranh quân sự, khủng bố, phá hoại với đấu tranh tình báo 
chính trị. Từ chiến tranh du kích Tết Mậu thân (1968) chuyển qua chiến 
tranh quy ước Mùa hè đỏ lửa(1972).Và trong giai đoạn 1965-1973 Mỹ đã 
phải trực tiếp chiến đấu trên chiền trường VN.
  
Vì
 áp lực của tình hình nội chính và dư luận quốc tế, các phe tham chiến 
đã đi đến nhận thức phải đàm phán hòa bình. Hội đàm được chọn tại Paris (Pháp) kéo dài từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. 
  
Hiệp định Paris về Việt Nam là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
  
Hòa
 bình chưa được bao lâu, Ban lãnh đạo CSVN lại mở chiến dịch “giải 
phóng“ miền Nam thống nhất đất nước sau các chiến dịch nối tiếp nhau: 
chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh, cuộc tấn công cuối cùng diễn ra từ ngày 5 tháng 3 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của VNCH đầu hàng vô điều kiện. 
  
Để
 nhanh chóng thống nhất, thuận lợi cho việc xây dựng chế độ độc đảng xã 
hội chủ nghĩa trên toàn quốc, ban lãnh đạo đảng lao động VN (cộng sản) 
ban hành các biện pháp:
  
- Giải tán guồng máy 
chính trị, hành chánh của VNCH, giải thể các đoàn thể, hiệp hội chính 
tri, kinh tế, văn hóa của xã hội dân sự.
  
- Lùng bắt các thành phần lãnh đạo đảng phái chính trị, tôn giáo, văn hóa và xã hội miển Nam.
  
- Lập các trung tâm học tập cải tạo để giam giữ hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức dân sự, văn nghệ sĩ của VNCH.
  
- Thực hiện đổi tiền.
  
- Di tản hàng triệu người dân thành thị về các vùng kinh tế mới.
  
- Cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
  
- Quốc hữu hoá và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với các xí nghiệp công quản và xí nghiệp tư nhân.
  
- Hợp tác hóa toàn bộ nông nghiệp.
  
- Đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh
  
- Giải thể MTDTGPMNVN và chính phủ của mặt trận.
  
-
 Đổi tên đảng lao động thành đảng cộng sản Việt Nam, lập quốc hội mới và
 đặt quốc hiệu là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).
  
Song
 song, lãnh đạo đảng áp dụng những biện pháp kinh tế, chính trị rập 
khuôn theo mô hình Trung Quốc và Liên Xô đưa đất nước vào tình trạng 
khủng hoảng trầm trọng hơn. Nạn nghèo đói và khủng bố bắt bớ diễn ra 
khắp nơi đã làm cho người dân miền Nam luôn sống trong lo sợ và tuyệt 
vọng. Đã là lý do cho gần 2 triệu người phải vượt biên ra đi.
  
Trong
 suốt 20 năm nội chiến hay còn được quốc tế gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, 
dân tộc đã phải trả giá quá cao cho chiến thắng của đảng cộng sản : 2 
triệu quân nhân hai miền thiệt mạng trên chiến trường và 300.000 người 
mất tích , từ 4 đến 5 triệu thương dân tử vong vì bom đạn. Hơn một triệu
 góa phụ, trên 900.000 trẻ em mồ côi Các cơ sở hạ tầng bị phá hủy, đồng 
rưộng và thiên nhiên bị nhiễm độc.Phí tổn cho cuộc chiến đầy tang thương
 này ước chừng 167 tỷ Dollar.
  
Hòa bình chưa lâu Việt Nam lại bước vào hai cuộc chiến tranh mới với hai quốc gia công sản anh em Trung Quốc và Cam Bốt.
  
Đức : Thống nhất đất nước bằng thương thảo và ngọai giao.
  
Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt (5.1945), nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta (4-11.2.1945) và Postdam (17.7 -2.8.1945), do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp)
 kiểm soát và quản lý. Berlin cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như 
nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông (Xã hôi chủ nghĩa)
 và Tây (Tư bản chủ nghĩa) cũng đã bắt đầu trên nhiều phương diện khác 
nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa hai phe.
  
Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức
 gọi là "Tường thành bảo vệ chống phát xít" và bị người dân Cộng Hoà 
Liên Bang Đức gọi là "Bức tường ô nhục" là một phần của biên giới nội 
địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989. Trong những năm từ 1949 đến 1961
 đã có khoảng 3 triệu người dân rời bỏ nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhằm 
để ngăn chận việc này, nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã khóa ranh giới với 
Tây Berlin bằng cách xây Bức tường Berlin.
  
Cộng hòa liên bang Đức
  
23 tháng 5 năm 1949 Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập từ 3 khu vực chiếm đóng của Anh, Mỹ và Pháp, lấy thành phố Bonn làm thủ đô.
  
Cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang Đức đầu tiên được tiến hành vào ngày 14 tháng 8 năm 1949. Konrad Adenauer của Liên minh Dân chủ Thiên Chúa giáo Đức (CDU) được bầu làm Thủ tướng Liên bang Đức.
 Chính quyền Adenauer chú tâm phát triển nển kinh tế thị trường xã hội, 
đẩy mạnh việc hội nhập phương Tây qua việc: gia nhập khối NATO,đồng 
thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu sau này cũng như thành lập quân đội liên bang.
 Đối với Đông Đức,Tây Đức khẳng định quyền đơn phương đại diện cho nước 
Đức và cắt đứt quan hệ với các quốc gia công nhận nước Cộng hòa Dân chủ 
Đức (Thuyết Hallstein). Mặc dù vậy Adenauer cũng đã ký kết một hiệp định với Liên bang Xô viết vào năm 1955 để đưa tù binh chiến tranh Đức hồi hương. 
  
Adenauer từ chức vào ngày 15.10.1963. Những người kế nhiệm Ludwig Erhard,
 Kurt Georg Kiesinger tiếp tục đường lối nội, ngoại trước đây của 
Adenauer. Trong tháng 10.1969 sau cuộc bầu cử Quốc hội, Đảng Dân chủ Xã 
Hội Đức (SPD) và Đảng Dân chủ Tự Do Đức (FDP) thành lập chính quyền liên hiệp dưới quyền của Thủ tướng Willy Brandt.
 Brandt công bố Ostpolitik,một chính sách chủ trương tiếp cận và đối 
thoại với các nước thuộc khối Đông thay thế cho học thuyết Hallstein. Ostpolitik, được đưa ra nhằm cải thiện quan hệ với Đông Đức, Ba Lan và Liên bang Xô Viết. Chính sách này của Brandt đã gây ra tranh cãi tại Tây Đức nhưng lại giúp ông giành được giải Nobel hòa bình năm 1971. Willi Brandt từ chức nhượng quyền cho Helmut Schmidt sau vụ khám phá ra người tùy viên thân cận của ông, Günter Guillaume, là một điệp viên Đông Đức. Rồi Helmut Kohl trở thành thủ tướng năm 1982. Kohl tiếp tục chích sách hòa hoãn Đông –Tây của Brandt khi đón tiếp Chủ tịch nhà nước Đông Đức Erich Honecker lần đầu tiên tới Tây Đức vào năm 1987. Sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin
 năm 1989, việc giải quyết các vấn đề Đông Đức của Kohl đã trở thành 
điểm mấu chốt trong thời kỳ cầm quyền của ông. Tận dụng ưu thế những 
thay đổi chính trị mang tính lịch sử đang xảy ra ở Đông Đức, Kohl đã 
thương thảo thành công với tứ cường cho tiến trình thống nhất nước Đức. 
Ông làm thủ tướng lâu hơn những người đi trước và được coi là thủ tướng 
thống nhất .
  
Cộng hòa Dân chủ Đức 
  
Nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được ra đời từ khu vực chiếm đóng của Liên Xô vào ngày 7 tháng 10 năm 1949 và thủ đô là Berlin.
  
Trong Quốc hội mới được thành lập Wilhelm Pieck là Chủ tịch nước và Otto Grotewohl là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Cho đến năm 1971 Walter Ulbricht với cương vị là Tổng bí thư của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức nắm giữ quyền lực quyết định trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức.
  
Tháng 5 năm 1953
 Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống Nhất Đức quyết định tăng chỉ tiêu lao động,
 gây ra nhiều chống đối dẫn đến cuộc nổi dậy của quần chúng vào ngày 17 tháng 6.
  
Tháng 5 năm 1971 Walter Ulbricht bị tước quyền lực, Erich Honecker trở thành người kế nhiệm chức vụ Tổng bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức.
  
Hai nước Đông và Tây Đức gia nhập Liên Hiệp Quốc trong năm 1973. Tháng 5 năm 1974 cơ quan đại diện thường trực của hai quốc gia Đức được thành lập tại Bonn và Đông Berlin. Hai quốc gia Đức ký kết Hiệp ước Helsinki vào ngày 1 tháng 8 năm 1975. 
  
Cuộc
 thay đổi chính quyền ở Liên Xô dẫn đến chính sách mở cửa, và cách mạng 
các nước Đông Âu. Thêm vào đó tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi và 
thất vọng không có cải cách chính trị nên đã dẫn đến nhiều cuộc biểu 
tình phản đối với rất nhiều người tham gia.
  
Vào ngày 18 tháng 10
 Honecker từ chức. Chỉ ít ngày sau đó toàn bộ chính phủ Cộng hòa Dân chủ
 Đức đều nối gót ông. Bức tường Berlin bị đập phá vào ngày 9 tháng 11.
 Cuộc phản kháng ôn hòa của nhân dân Đông Đức dưới hình thức các cuộc 
biểu tình vào ngày thứ Hai cuối cùng đã làm sụp đổ chính quyền nước Cộng
 hòa Dân chủ Đức.
  
Đức thống nhất trong hòa bình và tự do.
  
Vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, dựa vào Hiệp ước Thống nhất (Đức),
 việc nước Cộng hòa Dân chủ Đức gia nhập vào nước Cộng hòa Liên bang Đức
 theo chương 23 Hiến pháp được hoàn thành. Và cuộc bầu cử Quốc hội lần 
đầu tiên sau khi tái thống nhất được tiến hành trong tháng 12 năm 1990.
  
Thành phố Berlin từ đây trở lại là thủ đô của cả nước.
  
Sau
 ngày thống nhất chính quyền liên bang đã đưa ra nhiều chương trình phục
 hồi kinh tế, đảm bào an sinh xã hội và xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn
 lãnh thổ Đông Đức. Người dân Đông Đức đều được đối sử bình đẳng trên 
mọi phương diện, không phải trình diện học tập cài tạo, không phải lo sợ
 bị bắt bớ vì chính trị, hông bị tước đoạt tài sản qua các vụ đổi tiến, 
không phải rời bỏ đất nước đi tị nạn… Sự thống nhất đất nước qua phương 
thức thương lượng và ngoại giao của Đức là một mô hình đáng được thế 
giới khen ngợi.
  
H.H.N.
  
Tác giả gửi BVN
 
