Nguyễn Hưng Quốc      
 
Nhiều người công khai lên tiếng kêu gọi Bộ 
trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức với hai lý do chính: Một, sự bất
 lực của bà trước những sự thất bại nghiêm trọng của Bộ; hai là, những 
cách trả lời ngô nghê, thậm chí vô cảm của bà trước sinh mệnh của dân 
chúng.
Từ hai năm nay, dư luận dân chúng tại Việt Nam, đặc biệt trên các 
mạng truyền thông xã hội, chú ý một cách đặc biệt vào Bộ trưởng Y tế 
Nguyễn Thị Kim Tiến. Nhiều người công khai lên tiếng kêu gọi bà từ chức 
với hai lý do chính: Một, sự bất lực của bà trước những sự thất bại 
nghiêm trọng của Bộ (ví dụ, việc ngăn chận tham nhũng trong các bệnh 
viện, các phản ứng vụng về và bất lực trước nạn tiêm nhầm thuốc khiến 
trẻ em bị chết và gần đây nhất, cách đối phó với dịch sởi làm chết hơn 
100 trẻ em và hàng ngàn trẻ em khác đang nằm la liệt trong các bệnh 
viện, v.v…); hai là, những cách trả lời ngô nghê, thậm chí vô cảm của bà
 trước sinh mệnh của dân chúng trong phạm vi trách nhiệm của bà.
Ai gào la thì mặc, bà vẫn “kiên quyết” không từ chức. Mà, thật ra, 
không riêng gì bà Kim Tiến. Hầu hết các Bộ trưởng tại Việt Nam, thậm 
chí, cả chính phủ Việt Nam, kể cả những người đứng ở vị trí cao nhất, từ
 Tổng bí thư đến Chủ tịch nước và Thủ tướng, từ trước đến nay, dù vẫn 
phạm vô số sai lầm, nhưng cũng chưa có ai từ chức cả. Thủ tướng Phạm Văn
 Đồng, lúc đã về hưu, thường than thở là trên thế giới chưa ai làm Thủ 
tướng lâu như ông và cũng chưa có Thủ tướng nào ít quyền lực như ông; ít
 đến độ, suốt cả mấy chục năm, ông chưa hề, thực chất là không thể, bãi 
nhiệm bất cứ một viên chức nào dưới quyền: Đó là công việc của đảng! Vậy
 mà ông vẫn “cắn răng” cam chịu và tiếp tục ngồi trên ghế Thủ tướng suốt
 cả 32 năm (1955-1987). Gần đây, Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng 
cũng nhiều lần than thở y như Phạm Văn Đồng, nhưng ông cũng không từ 
chức. Có lần, bị tra hỏi, ông đáp: Ông được đảng phân công, do đó, ông 
phải tiếp tục.
Ở đây, chúng ta thấy có hai vấn đề: Một, dưới chế độ xã hội chủ 
nghĩa, từ trước đến nay, chỉ có hiện tượng bãi chức hay thuyên chuyển từ
 chức vụ này sang chức vụ khác chứ chưa hề có hiện tượng từ chức. Hiện 
tượng nhất định không từ chức này phổ biến đến độ người ta gọi đó là một
 thứ văn hóa: văn hóa không từ chức, hoặc, diễn tả một cách khác: Việt 
Nam chưa có cái gọi là văn hóa từ chức. Và hai, trong cơ chế công quyền ở
 Việt Nam, trách nhiệm của cá nhân hầu như chưa có: Toàn bộ việc quyết 
định bổ nhiệm hay sa thải đều nằm hết trong tay của đảng. Ngay cả với 
những người bất tài và bất lực, nếu đảng chưa quyết định thuyên chuyển 
hay cách chức, người ta vẫn tiếp tục giữ chiếc ghế của mình dù không làm
 gì cả hoặc nếu làm, làm một cách qua loa, dối dá, vô hiệu quả, bất chấp
 sự khinh bỉ của dân chúng.
Xin nói về vấn đề thứ hai trước.
Thật ra, ở Tây phương, bất cứ chiếc ghế nào trong chính phủ cũng xuất
 phát từ việc bổ nhiệm. Người đứng đầu chính phủ (hoặc Tổng thống hoặc 
Thủ tướng) là do dân chúng bổ nhiệm qua các cuộc bầu cử. Các chức vụ 
phía dưới đều cho Tổng thống hoặc Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm (có nơi, 
ví dụ ở Mỹ, với một số chức vụ quan trọng, cần sự chấp thuận của Quốc 
Hội). Ở cả hai cấp, người ta đều chịu trách nhiệm trước dân chúng và 
trước đảng của họ. Với tinh thần trách nhiệm ấy, người ta thường từ chức
 với một trong hai hoặc với cả hai lý do: Một, khi không còn được đảng 
tín nhiệm; và hai, khi đối diện với nguy cơ mất tín nhiệm của quần 
chúng. Nếu một quan chức nào đó, vì bất lực hoặc vì một sai phạm nghiêm 
trọng nào đó có thể gây ảnh hưởng tai hại đối với chính phủ hoặc đảng, 
họ có thể tự nguyện từ chức hoặc bị cách chức. Hai hình thức từ chức và 
cách chức có khi chỉ là một: đánh hơi được là sẽ bị cách chức, người ta 
tự ý xin từ chức trước, hoặc để bảo vệ danh dự của người ấy, thủ lãnh 
của họ có thể yêu cầu họ từ chức, nếu không, sẽ bị cách chức.
Trong mọi trường hợp, một chính phủ dân chủ bao giờ cũng bị sức ép 
của dân chúng để phải, một, thực hiện tất cả những gì mình từng hứa hẹn 
bằng cách tìm kiếm và sử dụng những người tài năng nhất trong mỗi chức 
vụ; và hai, công minh và nghiêm túc trong việc thưởng phạt để tránh bị 
dân chúng trừng phạt trong cuộc bầu cử kế tiếp. Trong suốt cả thời gian 
cầm quyền, bất cứ chính phủ dân chủ nào cũng đều bị theo dõi và kiểm 
soát nghiêm ngặt của giới truyền thông và đặc biệt, phe đối lập. Trước 
sức ép và những sự theo dõi ấy, không có sai lầm nào có thể bị bỏ qua; 
và vì không thể bỏ qua được, người ta chỉ có một trong hai lựa chọn: từ 
chức hoặc bị cách chức.
Ở Việt Nam, mọi quan chức chỉ chịu trách nhiệm trước đảng chứ không 
hề chịu trách nhiệm trước dân chúng; và đảng Cộng sản, vì không do dân 
bầu, nên không hề và cũng không cần chịu trách nhiệm trước dân chúng. 
Thành ra, từ góc độ cá nhân cũng như từ góc độ tập thể, không ai chịu 
trách nhiệm với ai cả. Không ai từ chức là vì thế. Người ta chỉ thuyên 
chuyển công tác. Và việc thuyên chuyển ấy chỉ là việc tái bố trí lực 
lượng trong nội bộ đảng nên không hiếm trường hợp: một người phạm sai 
lầm ở chức vụ này được thuyên chuyển sang một chức vụ khác, có khi còn 
cao hơn hẳn chức vụ cũ. Cho nên việc không từ chức và hiếm bị cách chức ở
 Việt Nam phản ánh một điều: nhà cầm quyền không cần giữ niềm tin của 
dân chúng, hay nói cách khác, bất cần dân chúng.
Chính đây là nguyên nhân dẫn đến vấn đề thứ nhất tôi nêu ở trên: Việt
 Nam chưa có, hoặc không có, văn hóa từ chức. Nói đến văn hóa là nói đến
 một cái gì sâu xa hơn những hiện tượng vào/ra, lên/xuống những chiếc 
ghế trong chính phủ. Nó là một nét trong cách suy nghĩ và, từ đó, hành 
xử của con người. Nó gắn liền với ý niệm về trách nhiệm và danh dự cũng 
như, rộng hơn, ý niệm về các chuẩn mực đạo đức trong xã hội.
Thứ nhất, việc thiếu văn hóa từ chức đồng nghĩa với việc thiếu tinh 
thần trách nhiệm. Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội nói chung rất tự hào
 đã sáng chế ra nguyên tắc “làm chủ tập thể” nhưng họ lại không thấy, 
hoặc thấy nhưng làm ngơ, một mặt trái của nguyên tắc này: cuối cùng 
không ai chịu trách nhiệm về bất cứ một sai lầm nào cả. Thành công, 
người ta nhận công lao thuộc về mình; nhưng thất bại, người ta lại đổ 
hết cho tập thể; có điều, tập thể là một đám đông vô hình và vô cùng mơ 
hồ và trừu tượng. Đến lượt cái tập thể ấy đổ tội cho… lịch sử hoặc, nói 
theo chữ của Phạm Thị Hoài, khi bàn về vấn đề trí thức Việt Nam, cho 
“thằng khách quan” nào đó.
Thứ hai, quan trọng hơn, do thiếu ý thức trách nhiệm, người ta cũng 
mất hẳn ý thức về danh dự. Mất ý thức về danh dự, người ta cũng mất cả ý
 thức về sự xấu hổ. Ở Tây phương, khi một chính khách phạm sai lầm, dù 
rất nhỏ, ví dụ trường hợp Thủ hiến New South Wales Úc, ông Barry 
O’Farrell, mới đây, đã từ chức vì không khai báo món quà ông nhận được, 
một chai rượu đỏ hiệu Penfolds Grange trị giá 3000 đô theo luật định. 
Lỗi, thật ra, không lớn. Người ta có thể tự biện hộ một cách dễ dàng 
bằng một lý do khá chính đáng: quên. Mà dễ quên thật. Một lãnh tụ cỡ như
 vậy thường phải dự cả hàng chục cuộc họp mặt và nhận được cả chục món 
quà đủ loại mỗi tuần. Nhưng ông O’Farrell không sử dụng cách tự bào chữa
 ấy. Ông quyết định từ chức. Một là để bảo vệ uy tín của chính phủ và 
của đảng ông. Hai là vì… xấu hổ. Ở Việt Nam, ngược lại, dường như không 
có một lãnh tụ hay quan chức cao cấp nào có bất cứ một biểu hiện tự xấu 
hổ nào cả. Bị phê phán hay chửi bới đến mấy, họ cứ trơ ra, chờ thời gian
 làm mờ nhạt dần, và cuối cùng, mọi người đều quên lãng.
Nhưng khi làm vậy, họ lại xói mòn, nếu không muốn nói là làm sụp đổ, 
mọi chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Một xã hội bình thường bao giờ cũng 
có một số chuẩn mực nhất định để căn cứ vào đó người ta đánh giá và phân
 loại thiện/ác, tốt/xấu, hay/dở, những điều có thể chấp nhận được và 
những gì không thể chấp nhận. Ngày xưa, suốt cả ngàn năm, người ta viết 
những câu chuyện có hậu với kết thúc ở hiền gặp lành và ở dữ gặp dữ là 
vì vậy. Ngay cả ở Tây phương hiện nay, mỗi khi viết về những người thành
 công, ví dụ các tỉ phú - ở Việt Nam thường gọi là “đại gia” - người ta 
thường chỉ tập trung vào trí tuệ, tài năng và sức lao động không biết 
mệt mỏi của họ. Ở Việt Nam thì khác. Nhan nhản trong xã hội là hình ảnh 
những quan chức bất tài và bất lực, vô trách nhiệm và không có chút tự 
trọng nào, vẫn cứ ung dung ngồi trên những chiếc ghế cao ngất ngưởng, đi
 đâu cũng có thảm đỏ, người đưa kẻ đón, không những giàu có mà còn đầy 
quyền lực. Đối diện với những kẻ như vậy, tất cả những người thông minh,
 tài năng và cần cù nhưng thật thà, biết xấu hổ, lúc nào cũng muốn giữ 
gìn nhân cách và nhân phẩm, trở thành những kẻ thất bại, và không chừng,
 bị dư luận cho là dại dột.
Bởi vậy, trong một ý kiến ngắn đăng trên facebook mới đây, tôi viết:
“Nhiều người thừa nhận: Ở Việt Nam chưa có văn hóa từ chức. Dường như
 chưa ai phủ nhận hay cãi lại. Nhưng đó chỉ là hiện tượng. Cần lưu ý, 
đằng sau sự thừa nhận ấy là hai sự thú nhận khác, quan trọng hơn: Một, 
Việt Nam thiếu một cơ chế thưởng phạt công minh để ngay cả những người 
bất tài, không xứng đáng hoặc vấp phải những sai lầm nghiêm trọng vẫn 
tiếp tục ngồi trên những chiếc ghế cao ngất ngưởng hầu tiếp tục phá hoại
 đất nước. Và hai, Việt Nam thiếu (hoặc đánh mất) một yếu tố cực kỳ cao 
quý không những đối với cá nhân mà còn đối với cả cộng đồng: lòng tự 
trọng. Cái thiếu đầu là sự bất toàn về phương diện tổ chức và pháp lý. 
Cái thiếu sau là sự bất toàn về phương diện văn hóa và đạo đức. Hệ quả 
của cả hai cái thiếu ấy là sự sụp đổ của các bảng giá trị, hoặc đúng 
hơn, các chuẩn mực của giá trị. Khi các chuẩn mực bị sụp đổ, người ta - 
mọi người, bất kể là ai, dù có chức quyền hay không có chức quyền - 
không còn phân biệt được cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, cái 
hay và cái dở: Cái hư ở trên, dù muốn hay không, cũng thấm dần xuống 
dưới. Xã hội, do đó, bị băng hoại tận đáy.”
Nhìn vấn đề như vậy, chúng ta dễ dàng trả lời câu hỏi nhiều người đặt
 ra: Tại sao xã hội, văn hóa, và đạo đức tại Việt Nam cứ mỗi ngày một 
băng hoại như vậy?
Câu trả lời: Bao giờ những người lãnh đạo các cấp chưa biết đến văn 
hóa từ chức, sự băng hoại ấy vẫn sẽ tiếp tục, hơn nữa, càng ngày càng 
trầm trọng hơn.
 
