Đa
dạng và khác biệt là quy luật muôn đời của vũ trụ vạn vật. Muôn sự thì
muôn vẻ, không sự nào vật nào hoàn toàn giống nhau. Con người thì “bá
nhân bá tánh”, “chín người mười ý”, chẳng ai giống ai.
Chính vì thế, những quyết định của con người, dù hoàn cảnh có hoàn
toàn như nhau, thì mỗi người quyết định mỗi khác, chẳng mấy ai giống ai.
Mà hoàn cảnh thì có hoàn cảnh nào giống hoàn cảnh nào đâu? Nhiều khi bề
ngoài có vẻ giống nhau, nhưng thực tế có khi khác nhau một trời một
vực. Khi quyết định, ai cũng có lý do mà họ tự đánh giá là chính đáng
cho quyết định của mình.
Quy luật đa dạng của vũ trụ cũng áp dụng cho tình trạng trong tù và
quyết định của mỗi người trong tù, đừng bao giờ nghĩ họ quyết định giống
nhau hay đòi buộc họ giống nhau. Có người như linh mục Nguyễn Văn Lý,
nhà thơ Nguyễn Hữu Cầu, Luật sư Nguyễn Văn Đài… thà chết rũ tù vì bệnh
chứ không chấp nhận được phóng thích mà bị trục xuất ra hải ngoại. Có
người như Luật sư Cù Huy Hà Vũ, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Nhà văn Trần
Khải Thanh Thủy mặc dù không muốn ra hải ngoại, nhưng vẫn có thể bất đắc
dĩ chấp nhận điều kiện đó để thoát cảnh tù đày. Sự khác biệt trong
quyết định là tùy cách suy nghĩ, cách nhìn vấn đề, và tùy tâm tính, hoàn
cảnh vốn rất khác biệt nhau của mỗi người. Nói theo toán học, với những
biến số khác nhau thì hàm số khác nhau là chuyện hết sức bình thường.
Quyết định như thế nào hoàn toàn là quyền tự do của mỗi người, ta nên
tôn trọng, miễn đó không phải là điều xấu và nhất là khi đương sự được
lương tâm của mình cho phép.
Những người quyết định thà chết trong tù để có thể ở lại trong nước
đấu tranh bất chấp những đau khổ hay nhục hình có thể xảy đến với mình,
chứ không chịu xuất ngoại để được tự do, thật vô cùng đáng phục! Những
người can đảm một cách đáng nể phục như họ rất hiếm và thật đáng quý.
Nhưng chắc chắn không phải nhà đấu tranh hay yêu nước nào cũng đều can
đảm được như họ, hoặc đều có cách tính toán suy nghĩ giống họ (luật đa
dạng mà!) Việc họ dám lên tiếng đấu tranh trong chế độ cộng sản đã là
điều đáng phục vốn không mấy người làm được. Nếu họ không thể chịu đựng
nổi những cực hình trong tù, mà chấp nhận ra hải ngoại để thoát khỏi
cảnh ấy, điều đó tuy không đáng phục bằng những người thà chết trong tù
chứ không chấp nhận ra hải ngoại, nhưng những gì họ đã từng can đảm làm
cho quê hương đất nước rất đáng cho chúng ta ngưỡng phục. Chúng ta không
nên lấy tiêu chuẩn tốt nhất vốn rất hiếm người làm được để áp đặt lên
mọi nhà đấu tranh, buộc phải làm được trong khi chính chúng ta chưa hề
làm nổi một phần nhỏ của họ.
Họ quyết định thế nào là quyền tự do của họ. Nếu chúng ta thật sự là
những người đấu tranh cho quyền con người, cho tự do dân chủ, chúng ta
phải tôn trọng quyền đó của họ. Voltaire nói: “Tôi có thể không đồng ý
những điều anh nói, nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói
những điều đó” (Je désapprouve ce que vous dites, mais je me battrai
jusqu’à la mort pour que vous ayez le droit de le dire). Trong tinh thần
ấy, ai không tôn trọng những quyết định của người khác khi những quyết
định này không hề phương hại đến quyền lợi chính đáng của người khác,
kẻ ấy hẳn nhiên không phải là kẻ tôn trọng nhân quyền, lại càng không
phải là người thật sự đấu tranh cho nhân quyền.
Tù ngục là nơi mà các tù nhân phải chịu biết bao đau khổ, thậm chí có
thể chết như thầy giáo Đinh Đăng Định mới đây. Tù của các nước tôn
trọng nhân quyền mà còn khổ, huống hồ tù của một nước độc tài, vô luân,
chà đạp nhân quyền như CSVN. Ai cũng biết câu: “Nhất nhật tại tù, thiên
thu tại ngoại” (một ngày trong tù dài lê thê tựa như ngàn ngày ở ngoài).
Việc mong muốn hay nhu cầu ra khỏi tù rất lớn. Những người chưa từng ở
tù cộng sản thiết tưởng khó mà hiểu được những khó chịu, đau đớn, khổ
cực và ước mong được tự do của những tù nhân trong chế độ cộng sản.
Đừng nói tới những trường hợp tù ngục, ngay cả những người ở ngoài tù
trong chế độ cộng sản cũng muốn thoát khỏi chế độ tàn bạo khủng khiếp
này. Bằng chứng là có hàng triệu người đã vượt biên tìm tự do, bất kể
sống chết, bất kể bị chết đói chết khát, bất kể bị làm mồi cho cá mập,
bất kể bị cướp bóc, bị hiếp dâm, bất kể bị thất bại và bị công an cộng
sản bắt vào tù. Trong dân gian hậu 1975 có câu: “Cái cột đèn nếu biết đi
cũng sẵn sàng bỏ nước ra đi..”
Trời sinh ra sức chịu đựng và ý chí của mỗi người khác nhau. Chúng ta
đừng đánh đồng mọi người như nhau. Khi chưa chịu cực thì ai cũng tưởng
khả năng chịu cực của mình rất lớn, sẵn sàng thề sống chết rằng vì đất
nước, cực tới đâu mình cũng chịu. Nhưng khi thực tế phải đối diện với
cực khổ, ta mới biết sức chịu đựng của ta giới hạn thế nào. “Lực bất
tòng tâm” là điều ai cũng kinh nghiệm được. Vì thế, ta nên thông cảm
thay vì chê trách những người yêu nước vì không chịu đựng được đau đớn,
khổ cực mà tìm cách giảm nhẹ đau khổ cách phù hợp với lương tâm mình.
Thiết tưởng khi chê trách ai, ta nên tự nhìn lại mình trước đã.
Để biểu lộ lòng yêu nước hay đấu tranh cứu nước, có nhiều lựa chọn
khác nhau, không nhất thiết chỉ một cách duy nhất. Khi Miền Nam Việt Nam
thất thủ năm 1975, để biểu lộ lòng yêu nước và phản đối chế độ cộng
sản, có người tự sát như các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn
Hưng… Có người vượt biên ra hải ngoại để có thể đem vũ khí trở về nước
chiến đấu như tướng Hoàng Cơ Minh, sinh viên Trần Văn Bá, Đại tá Võ Đại
Tôn… Có những người ở lại trong nước để chiến đấu như Hòa Thượng Thích
Quảng Độ, Lm Nguyễn Văn Lý, người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu… Có biết bao
người sau khi vượt biên đến bến bờ tự do đã đấu tranh cho tự do dân chủ
bằng cách yểm trợ hữu hiệu cho cuộc đấu tranh tại quốc nội về tài chánh
qua việc tiếp tế cho các nhà đấu tranh trong nước, về chính trị qua hoạt
động quốc tế vận, về thông tin qua các đài phát thanh, truyền hình,
Internet, paltalk, v.v… biến hải ngoại trở thành một hậu phương vững
chắc cho quốc nội. Tất cả những cách biểu lộ lòng yêu nước hay hình thức
đấu tranh khác nhau đó, dù ở lại trong nước hay ra hải ngoại, đều đáng
trân quý, đều không những ích lợi mà còn rất cần thiết, không thể thiếu.
Thật vậy, nếu tất cả đều ở lại trong nước thì sẽ không có lực lượng yểm
trợ tại hải ngoại như hiện nay. Đó là sự phân công tự nhiên và đa dạng
của cuộc đấu tranh.
Trong lịch sử, thời thực dân Pháp cai trị −chắc chắn không hà khắc và
tàn bạo như CSVN hiện nay− nhiều nhà yêu nước và đấu tranh nổi tiếng
như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, và rất nhiều người khác, đã từng bỏ
nước ra đi mặc dù chẳng phải trong tình trạng tù tội. Tại hải ngoại, các
vị ấy đã làm được nhiều việc khiến tổ quốc phải tri ân. Tùy hoàn cảnh
và khả năng mỗi người, có người ở lại trong nước sẽ có lợi cho đại cuộc
hơn, có người ra hải ngoại có lợi hơn. Không phải ai cũng giống ai.
Việc đấu tranh cũng như làm chính trị thì “thiên biến vạn hóa”, người
càng nhiều mưu lược thì khả năng “tùy cơ ứng biến” càng cao và sự biến
hóa càng khó có thể tiên đoán hay tưởng tượng được. Đấu tranh hay làm
chính trị mà chỉ nghĩ được một chiến lược, một chiến thuật duy nhất để
đối phó trong tất cả mọi hoàn cảnh, bất chấp hoàn cảnh thay đổi khác
nhau, thì hoàn toàn đi ngược lại với nguyên tắc “tùy cơ ứng biến” của
binh pháp mà các nhà đấu tranh cần phải hiểu rõ và áp dụng. Người đấu
tranh hay làm chính trị có thể chủ trương ở trong nước, mà cũng có thể
chủ trương ra hải ngoại. Tùy tình thế! Không nhất thiết chỉ có một
đường!
Trước sự việc Luật gia Cù Huy Hà Vũ ra hải ngoại, biết bao nhiêu
người lên tiếng phát biểu ý kiến trên các diễn đàn Internet, người đồng ý
thì chúc mừng, cho đấy là một quyết định khôn ngoan; người không đồng ý
thì phản đối, cho đấy là đầu hàng, là hèn nhát; có những người đứng
trung lập… Đồng ý hay phản đối cũng có nhiều mức độ khác nhau. Dù đồng ý
hay bất đồng, dù ủng hộ hay phản đối, ai cũng đều có lý do mà một cách
chủ quan mình luôn cho là hợp lý, là đúng. Nếu không cho điều mình nghĩ
là đúng thì đâu còn là lập trường nữa. Thiết tưởng mọi người đều có
quyền phát biểu ý nghĩ của mình, và các nhà đấu tranh cho nhân quyền và
tự do dân chủ không những cần tôn trọng mà còn phải đấu tranh bảo vệ
quyền ấy.
Ý kiến khác biệt đủ kiểu ấy cho thấy sự thể hiện luật đa dạng của vũ
trụ vạn vật trong xã hội con người. Người viết bài này cảm thấy rất
thích thú về luật này, đồng thời tạ ơn Trời vì đã tạo nên luật đa dạng
ấy. Nếu không có luật đa dạng ấy thì mọi vật trong vũ trụ đều đồng dạng,
đều giống nhau, lúc ấy vũ trụ này chắc là buồn chán lắm. Ngay trong
chuyện ăn uống, nếu thức ăn mà không có nhiều thứ khác nhau để thay đổi,
cứ ăn hoài một món dù là món mình thích nhất chắc là… chán lắm, nuốt
không trôi! Nếu mọi tế bào trong thân thể tôi đều giống nhau thì tôi chỉ
là một cục thịt, hay một cục xương thuần nhất.
Nhưng điều buồn cười là có rất nhiều người lại không muốn hay không
chấp nhận tính đa dạng của tự nhiên. Con người muốn tất cả mọi người đều
phải quan niệm giống mình, hoạt động giống mình, ai giống mình thì
đúng, ai khác mình thì sai. Ai khác mình thì phải tìm cách bắt họ giống
mình. Họ không chịu giống mình thì chửi rủa, mạt sát họ, hạ họ xuống bùn
đen.
Mọi chế độ độc tài trên thế giới đều phát sinh từ tâm thức này. Một
đất nước mà đa số người dân đều có tâm thức này thì hẳn nhiên chế độ mà
họ sản sinh ra phải là một chế độ độc tài. Người Mỹ có câu: “Such
people, such government” (dân nào chính phủ nấy). Thật vậy, người dân mà
có tâm thức độc tài thì làm sao sinh xuất được một chế độ dân chủ?
Nhiều người phê bình chỉ trích người khác mà không hề nhìn lại mình
thế nào, mình là ai. Chính mình cũng trốn chạy cộng sản và chưa bao giờ
có được một hành động nào anh hùng như Cù Huy Hà Vũ, thậm chí kém xa ông
ấy một trời một vực, lại lên tiếng chỉ trích việc ông bất đắc dĩ phải
ra hải ngoại, lại còn dạy ông phải can đảm thế này thế khác! Ôi, ngao
ngán thay cảnh “thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm” hay cảnh “dạy đĩ
vén váy!” (xin lỗi độc giả, do không tìm được một hình ảnh nào khác
ngoài thành ngữ bình dân này để minh họa, dù không xứng hợp).
Thiết tưởng chúng ta đừng vội phán đoán một con người đã từng có
những hành động anh hùng đáng phục mà rất hiếm người làm được như Luật
gia Cù Huy Hà Vũ. Chúng ta hãy chờ xem khi ra hải ngoại, ông làm gì, ông
nói gì, ông làm lợi gì cho cuộc đấu tranh dân chủ trong nước. Nếu thấy
ông có ý chí tiếp tục đấu tranh thì chúng ta phải ủng hộ ông, phải tiếp
tay giúp phương tiện để ông đấu tranh, không cách này thì cách khác.
Giả như (chỉ “giả như” thôi!), giả như ông im tiếng luôn thì ta cũng
nên tự hỏi: người Việt hải ngoại − trong đó có ta − có quan tâm tạo điều
kiện cho ông đấu tranh không? Ngay như những nhà đấu tranh trong nước
nếu không có sự yểm trợ của người Việt hải ngoại, những người yêu nước
làm sao đấu tranh lâu dài được khi bị công an bao vây kinh tế, sách
nhiễu đủ điều đó? Làm sao họ yên tâm đấu tranh lâu dài được khi bụng họ
đói, gia đình họ nheo nhóc?
Cũng vậy, người mới từ trong nước ra hải ngoại nếu cứ phải vật lộn
với cuộc sống suốt ngày suốt tháng suốt năm, nếu cuộc sống của họ chưa
ổn định được, làm sao họ tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ được? Người chỉ biết
trách người mà không hề xét xem mình có đáng trách không thì còn đáng
trách hơn người bị mình trách nữa.
Người ta đấu tranh là do lòng yêu nước và sự tự nguyện của người ta.
Họ đấu tranh không phải vì ta khuyến khích họ, lại càng không phải vì ta
trả lương cho họ… Giả như họ ngừng đấu tranh thì đó là quyền của họ, ta
không có quyền trách móc phê phán họ, nhất là khi ta chưa từng đấu
tranh anh dũng như họ. Chỉ cần dám can đảm lên tiếng đấu tranh bất chấp
tù tội như Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Phong, v.v… dù bây giờ
họ đã im tiếng hay không còn đấu tranh mạnh mẽ như trước, miễn là không
làm gì phản lại lý tưởng của họ, thì họ vẫn là những người đáng phục,
nhiều lần đáng phục hơn những người chưa bao giờ làm được như họ.
Khi phê bình chỉ trích ai, nhất là những người cùng chiến tuyến với
mình, xin hãy tự hỏi: lời chỉ trích này có lợi cho ai? cho độc tài cộng
sản hay cho tự do dân chủ? Coi chừng kẻo chúng ta đang lạm dụng quyền tự
do dân chủ của các nước tự do để vi phạm nhân quyền hay quyền tự do của
người khác.
© Nguyễn Chính Kết
© Đàn Chim Việt
___________________________
Xin tham khảo thêm:
1) Đừng vội xét đoán – Chuyện nồi cơm của Khổng Tử:
2) Đừng xét đoán:
3) Đừng vội vàng kết luận: