Bút ký của Từ Khanh
Lời thưa
Burmar hay Myanmar (Miến Điện), Rangoon hay Yangon (Ngưỡng Quang),
Irrawaddy hay Ayeyarwaddy (sông Voi), Pin Oo Lwin hay May Myo (Phố Mây),
những địa danh cũ và mới của Miến Điện vẫn chưa được thống nhất cả bên
trong và bên ngoài đất nước có hàng vạn chùa tháp, trên một trăm sắc
dân, và đời sống còn khép kín cả về tâm tư cùng địa lý.
Hình thể Miến Điện như một ngọn lửa có bốn ngọn chiếu ra bốn hướng chính, nhưng cũng giống lưỡi mai xắn đất.
Ngọn lửa dễ thấy, nhưng bên dưới lưỡi mai còn nhiều cất dấu.
Tôi đến Miến Điện vào đầu thu năm 2009, không có tham vọng đào xới
những bí ẩn của một đất nước và dân tộc khép kín. Điều đó chỉ có thể
thực hiện với thời gian vài mươi năm. Tôi chỉ ở Miến Điện 12 ngày, chỉ
để thỏa một ước mơ là đặt chân lên Đồi Mandalay ở miền Thượng Miến Điện,
nơi Phật Thích Ca đã một lần dừng chân. Nhưng ý định ban đầu được bội
thu vì sự tùy hứng đẩy đưa tôi đi nhiều tỉnh khác, tiếp xúc với những
tình cờ nên biết thêm một chút về một nơi, cho đến nay, chưa phải là địa
chỉ nghỉ mát nghỉ hè hay nghỉ ngơi của nhiều người.
Tôi viết bút ký này với hy vọng các bạn ‘phượt’, từ mới chỉ những
người thích giang hồ vặt, thích đi ngẫu nhiên hay ‘đi bụi’, tìm thấy một
vài thông tin bổ ích, trước khi lên đường qua Miến Điện.
Vì vậy tập sách mỏng này ghi chép vài kinh nghiệm nhỏ, có thể nói là
những điều khôn vặt, may ra những người sắp phượt biết thêm một ít
thông tin.
Ấn tượng đọng lại trong tôi sau khi rời phi trường Yangon trong một
sáng mưa bụi, là những điều chưa thấu hết sau nụ cười thầm câm của người
Miến Điện.
Từ Khanh
* * *
1. Cố đô Yangon
Chiếc phi cơ của hãng hàng không giá rẻ Air Asia chạm bánh lên phi
đạo phi trường quốc tế Yangon (Rangoon) lúc gần tám giờ sáng, ‘nhiệt độ
bên ngoài là 32 độ C’. Giờ Miến Điện sau Việt Nam 30 phút. Một phi
trường vắng và buồn tênh, nó gợi hình ảnh của phi trường Tân Sơn Nhất
hồi đầu thập niên 1990.
Khi cánh cửa phi cơ mở ra và theo chân những người khác, tôi nhìn
thấy một bầu trời mây xám. Không gian đứng sẵn, con người chờ sẵn, xe ca
dưới sân bay đón sẵn, các nhân viên an ninh và tiếp viên hàng không
đứng lặng. Tất cả những sẵn sàng ấy lặng thinh chờ những chuyển động từ
một tốc độ xuyên không gian, và ngược thời gian, từ bên ngoài tới.
Mây ở Ngưỡng Quang như mây Sài Gòn, nhưng buồn hơn.
Những chiếc va li sặc sỡ, những áo quần nhiều sắc từ phương xa đến
nổi bật trên nền buồn của nơi chốn, nhưng đồng thời làm bầu khí (phi
trường) thâm trầm hơn.
Tôi bước lên chiếc xe ca, cửa vẫn mở khi xe lăn bánh, ‘lơ máy bay’
đứng một chân trong một chân ngoài. Dưới bầu trời âm u ẩm ướt giữa mùa
mưa, sân phi trường chỉ có chiếc phi cơ vừa hạ cánh và hai chiếc máy bay
của hãng hàng không nội địa Air Bagan. Không khí trầm trầm. Khu làm thủ
tục nhập cảnh im lìm như tăng thêm bầu khí e dè ở một đất nước chưa
hoàn toàn mở cửa. Vài nhân viên an ninh đứng ở trong nhìn ra, khách im
lặng bước vào. Dường như nếu không có hai chiếc xe ca chở khách từ ngoài
phi đạo vào thì bầu khí ở đây chắc còn lặng lẽ hơn nữa.
Tôi vào làm thủ tục di trú đầu tiên. Có tám cửa nhưng chỉ bốn quầy
có nhân viên ngồi, như vậy cũng đủ vì chỉ có một chuyến máy bay quốc tế.
Mỗi quầy có hai nhân viên ngồi cùng bên, người trước nhận giấy tờ của
khách kiểm tra rồi đưa qua người bên cạnh. Tôi đã xin visa nhập cảnh ở
Lãnh Sự Quán Danh Dự Myanmar nằm trên con đường nhỏ Sầm Sơn ở quận Tân
Bình, Sài Gòn. Ở đây họ nhận hộ chiếu và đơn xin nhập cảnh rồi gửi ra Hà
Nội, hẹn trong một tuần đến lấy. Giấy tờ đầy đủ, nhưng khi đưa hộ chiếu
có đóng dấu visa 28 ngày thì cô nhân viên lắc đầu quầy quậy, nói cái gì
đó. Cô lấy một tờ giấy trắng, chỉ vào tờ giấy rồi lật hộ chiếu chỗ có
đóng dấu visa của sứ quán quán Myanmar ngoài Hà Nội, rồi lại chỉ tấm
hình trên hộ chiếu, nói ‘paper paper’. Thì ra khi xin visa, sứ quán
Myanmar vừa đóng dấu visa nhập cảnh lên hộ chiếu, vừa bấm kèm lá đơn của
người xin có dán ảnh lên trên. Tôi tưởng có khuôn dấu đóng lên hộ chiếu
là đủ rồi nên cất tờ đơn một chỗ khác. Lại lục ba lô một hồi mới tìm
ra. Nhân viên di trú thu tờ giấy có tất cả các chi tiết của người xin
nhập cảnh. Bây giờ mới hiểu tại sao khi xin chiếu khán phải viết hai tờ
đơn, một đơn giữ ở sứ quán, một tờ di trú giữ khi đến. Thủ tục thật
phiền phức.
Hành lý không có gì khai trừ mớ áo quần đi bụi, lương khô và các
viên vitamine đủ sống trong năm ngày. Tôi đem theo lương khô cho chắc ăn
vì trước khi đi đã nghiên cứu kỹ, mấy anh Tây ba lô đi trước khuyên
thế, nhất là nếu đi tàu lửa vài chục tiếng thì trên xe lửa không có gì
để ăn. Nói chung là lỡ có mệnh hệ nào, chiến tranh chẳng hạn, hay chính
quyền quân sự đột ngột cấm nội bất xuất ngoại bất nhập thì mình còn ôm
mớ lương khô kiếm đường… vượt biên qua Thái!
Thật ra tôi cẩn thận trên mức bi quan đó thôi, dù không phải không
có lý do. Bởi một đất nước trong thời buổi liên thông mà lại bị ‘nghỉ
chơi’ thì quả là điều khó hiểu, càng gây cảm tưởng nó là một ngôi làng
sống biệt lập và bị cô lập sau lũy tre làng, không biết điều gì đang xảy
ra trong ấy, và người ta có cái cảm giác ái ngại cho người ở trong,
thậm chí thương hại. Nhưng người ở trong chưa hẵn đã nghĩ như vậy, nhất
là với một dân tộc vốn trầm lắng, ít bày tỏ cảm xúc bằng lời nói, ít ra
tôi cũng thấy như vậy trong 12 ngày đêm ở Miến Điện.
Bầu khí lặng lẽ nơi khu làm thủ tục nhập cảnh trùm qua cửa hải quan.
Một nữ nhân viên ngồi ở Cửa Xanh, khuôn mặt thản nhiên, không vồn vã,
không dọa nạt, không soi mói, đôi mắt đen và da mặt ngăm ngăm của cô có
một vẻ kín đáo. Liếc ra bên ngoài khu đón khách cũng không có cảnh nhí
nhố tưng bừng hay cánh taxi xớn rớn mời mọc. Mọi người đứng yên lặng,
chỉ nhìn. Yangon không còn là thủ đô từ năm 2005, nhưng vẫn là thành phố
thương mại sầm uất nhất Miền Điện. Vậy mà cảnh phi trường và đón khách
bình thản, nhìn phát lo.
Một tuần trước ngày đi tôi đã gửi điện thư đặt phòng ở một nhà khách
có tên Ocean Pearl Inn, họ quảng cáo trên mạng sẽ đón khách từ sân bay
miễn phí, phòng trọ 10 đô, và quan trọng nhất là ‘điện nước đầy đủ’. Gửi
email ba ngày không thấy trả lời, tôi gửi tiếp một email nữa nhắc, sáng
ngày đi còn mở thùng thư kiểm tra một lần chót nhưng phía nhà trọ vẫn
lặng lẽ. Thôi thì bề nào cũng lặng lẽ tới đây rồi. Ra khỏi cửa hải quan,
mừng sao thấy một quầy thông tin (Information) nhỏ bên tay phải. Cô
thông tin cười lặng lẽ, cô lấy hai tấm bản đồ du lịch ra tặng. Tôi nhờ
cô tìm một nhà trọ rẻ, cô gái gật đầu, lúi húi tìm địa chỉ. Đúng lúc đó
một thanh niên tiến lại, anh ta mỉm cười, rồi giơ một tấm bảng lên thì
kìa, tên họ tôi viết bằng chữ hoa đàng hoàng. Anh ta mỉm cười ra dấu đi
theo ra xe.
Khi lên xe tôi hỏi sao không thấy phía anh trả lời tin đặt phòng,
anh nói mới nhận email sáng nay thôi. Tôi đã biết chính quyền kiểm soát
thông tin rất chặt, xe cộ cũng cũ kỹ nhất hạng thế giới, nhưng không ngờ
khi nghe và thấy Yangon thì mức độ ‘chặt’ và ‘cũ’ còn trên tưởng tượng.
Chiếc xe cá mập không biết của hãng nào cũ như không thể rách nát hơn.
Các chiếc xe hơi đang chạy trên đường đều xập xệ cà tàng thế cả. Thùng
xe tróc sơn lòi cả dấu hàn xì, nệm ghế bờm xờm như bờm ngựa, máy xe khục
khịa, cửa kính xe không thể hạ xuống, không có tay quay, và trước mặt
bác tài không một cái đồng hồ nào hoạt động kể cả đồng hồ tốc độ. Xe
lượn trên con đường xanh lá. Đến một ngã ba trước khi vào đường lớn,
thấy một tấm bảng có hàng chữ nỗi màu vàng trên tấm bảng xanh, ghi: Myanmar, The Golden Land.
Một ngày đầu tuần, thành phố đang giờ cao điểm, nói theo thói quen ở
những thành phố lớn đông xe vào đầu giờ làm việc. Nhưng suốt nửa giờ xe
chạy không thấy kẹt xe dù xe hơi (cũ) nhiều hơn xe gắn máy và xe đạp.
Những con đường đi qua xanh lá, nhiều chiếc chạy rung cả thùng xe, cũng
qua mặt này nọ nhưng không ồn ào, tất cả các di động trên đường có một
vẻ mềm mại, yên tĩnh gần như sự lãnh đạm, các nhà sư chân đất áo nâu
sẫm, các xe hàng người ngồi trên mui xe, những cậu bé học trò áo trắng
quấn xà rông (longy) xanh lá cây, bầu trời xám, lề đất sũng nước, con
người sinh sống đi lại nhưng tất cả bình thản một vẻ buồn. Xe đi qua vài
con đường đông đúc người và những tòa nhà bốn tầng cũ kỹ có màu tường
xanh hay xám tróc vôi loang lổ, rồi ngừng lại. Nhìn con đường ổ gà ngập
nước, nhìn cái nhà khách có cửa kính màu xanh đục nằm trong một dãy
chung cư luộm thuộm cũ mèn, nước và đất đọng từng vũng trước nhà trọ,
tôi chán nản bước trên những cục gạch vào cái nhà khách tối tăm. Không
ngờ cái nhà trọ lại tồi tàn đến khiếp vía như vậy. Lỡ rồi!
Người đàn ông trung niên ốm nhỏ đang ở trần đứng sau quầy thấy tôi
vào, lật đật tròng vội cái áo thun ba lỗ nên ấn tượng ở ngay ‘trung tâm
thành phố Yangon’ như quảng cáo càng ê chề. Ông ta cười nói ngay:
- Tôi mới trả lời email cho anh sáng nay.
Ông dẫn lên tầng trên, chỉ một loạt phòng trống nói tôi muốn lựa cái
phòng nào cũng được vì không ai ở cả. Nghe càng ghê. Trót trao thân rồi. Đành tự an ủi là phòng mình có cửa mở ra cái lan can nhỏ trông ra con đường dơ bẩn, dù trong phòng choáng một cái cầu thang dẫn lên tầng hai nhưng giường nệm sạch sẽ và nhất là, có vẻ yên tĩnh dù ở ngay chốn chợ búa. Tôi bỏ ba lô dưới chân cầu thang, xuống hỏi đường ra sông Yangon. Lý do tôi chọn cái nhà khách (khá thổ tả) này là vì nó nằm gần sông, đi bộ chỉ mất 10 phút.
phòng nào cũng được vì không ai ở cả. Nghe càng ghê. Trót trao thân rồi. Đành tự an ủi là phòng mình có cửa mở ra cái lan can nhỏ trông ra con đường dơ bẩn, dù trong phòng choáng một cái cầu thang dẫn lên tầng hai nhưng giường nệm sạch sẽ và nhất là, có vẻ yên tĩnh dù ở ngay chốn chợ búa. Tôi bỏ ba lô dưới chân cầu thang, xuống hỏi đường ra sông Yangon. Lý do tôi chọn cái nhà khách (khá thổ tả) này là vì nó nằm gần sông, đi bộ chỉ mất 10 phút.
Đúng là chỉ 10 phút, nhưng không thấy sông mà chỉ có một bức tường xi
măng loang lổ che kín mé sông, những người đàn ông Miến quấn xà rông ở
trần nằm ngồi hay ngủ trên lề đường, hoặc tụm năm ngồi ngai trầu tán
chuyện, con đường chạy dọc bờ sông lớn và dơ bẩn, xe tải chạy rần rần và
lộn xộn, bụi bốc lên dù đường sũng nước. Nhìn tấm bản đồ được phát ở
phi trường cứ tưởng con đường ven sông này phải thơ mộng, nhất là có địa
chỉ của sứ quán Anh và Úc nữa. Nhưng đi non một cây số vẫn không thấy
sông, cảnh không khác mấy khu Khánh Hội bên quận 4 Sài Gòn trước khi
được giải tỏa. Tôi rẽ trái vào một bến tàu, hàng quán và xe đạp lôi đậu
tràn đường, các bà bán thơm đã lột vỏ bày trên đường nhìn từ xa thấy một
đám ruồi đậu kín mít, nhưng khi tới gần không phải ruồi mà ong mật bám
kín tất cả các miếng thơm. Tôi vào một quán cốc gần bến phà, nhìn qua
bên kia sông, hỏi có cà phê không, anh bán quán gật, một chút sau đem ra
một cốc nhỏ không phải cà phê mà là trà sữa, giá 300 kyat (đọc là
‘chát’, 1 đô la Mỹ đổi được 1.000 kyat).
Ly nước đầu tiên của tôi ở Miến Điện. Sau này mới biết nó là nước trà nấu từ nước sông Yangon đục ngầu.
Cho đến gần chiều hôm đó tôi rảo bộ hết các khu gần nơi ở. Không có
lề đường nào có thể đi bộ mà không nhìn xuống đất nếu không muốn bị vấp
hay sụp lỗ cống. Người Miến Điện ăn trầu nhiều như đàn ông Việt Nam hút
thuốc, họ nhổ nước trầu xuống đường xoàn xoạt, những miếng đá không còn
nguyên vẹn vừa bám rêu xanh vừa bám đầy màu đỏ nung của nước trầu. Họ
nhổ nước trầu bất ngờ như người mình chạy xe máy bỗng nghiêng đầu ‘xoẹt’
một cái, nếu xui xẻo người đi sau rất dễ trúng đạn. Nhà cửa ở những con
đường tôi đi qua thường là chung cư, cũ mèm và luộm thuộm (ở Sài Gòn
không còn chung cư nào như thế). Lề đường chật càng chật thêm không chỉ
vì người mà vì nhiều máy phát điện đủ cỡ để trên lề. Khu chợ Bogyoke
Aung San (hay còn gọi là Scott Market) cũng không khá hơn mấy dù là chợ
chính của Yangon, hàng hóa ít chủng loại tuy có khá nhiều sạp bán đá quý
và vài tiệm vàng nhận đổi đô la. Miến Điện cúp điện triền miên (viết
đến đây mới thấy tên nước họ có chữ ‘điện’). Tôi vào một tiệm Internet,
chưa kịp ‘log in’ thì nghe ‘xoạch’ một cái: cúp điện. Nhưng chỉ mấy phút
sau là có điện, vô Yahoo chờ khoảng nửa giờ thì chỉ thấy hộp thư
(inbox) đầy nhưng vào hoài không được. Cô coi tiệm nhảy vô đổi địa chỉ
IP gì đó mà tôi đoán là để vượt tường lửa, chờ gần nửa tiếng nữa thì
đành bó tay.
Gần chiều, tôi kêu một chiếc taxi nhờ chở đến hồ Inya Lake, nhìn
trên bản đồ thấy có vẻ là một địa chỉ đẹp. Trả giá xe bài bản (2.000
kyat, sau này mới biết người địa phương chỉ mất một ngàn). Chiếc taxi,
tình trạng giống chiếc cá mập đón ở phi trường, không có đồng hồ nào
hoạt động, cửa kính không có, nội thất xe thì khỏi nói, sườn sắt bên
trong có cái gì bày ra cái nấy, nhưng anh taxi rất vui tính. Anh đố tôi
giá chiếc xe bao nhiêu. Tôi nói không biết nhưng nếu ở nước ngoài phải
trả tiền thì mới bỏ nó vào được khu phế thải. Anh ta cười lớn, chỉ một
chiếc xe màu đỏ cũ mèm đang chạy phía trước, thùng xe không có nhãn mác
và còn dấu hàn đồng chưa phủ sơn, lại đố tôi chiếc đó bao nhiều đô. Tôi
vẫn trả lời như cũ. Anh bảo chiếc xe đỏ đó giá ít nhất là 15.000 đô la
Mỹ. Anh nhấn mạnh chữ đô la. Ngay ở Việt Nam cũng khó thấy một chiếc xe
cũ như thế, còn ở Úc hay Mỹ thì bảo đảm phải trả cho người buôn phế liệu
ít nhất 100 đô họ mới tới nhà kéo đi. Anh nói chiếc taxi anh đang lái
thuộc loại bèo, chỉ 10.000 đô thôi!
Nhưng đi xa khu vực tôi đi bộ vừa rồi mới thấy Yangon quả không tệ
như thế. Càng đi về hướng Bắc (sông Yangon nằm hướng Nam Yangon) thì nhà
cửa càng rộng rãi và đường xá sạch sẽ trơn láng hơn. Có thể ví Yangon
như một cái túi miệng to đáy nhỏ, đáy là khu ổ chuột, chứa toàn những đồ
lỉnh kỉnh nhưng miệng thì mở ra khoáng đạt, mát mẻ và xanh tươi. Nước
hồ Inya trong, quán ăn nằm bên hồ không thua gì ở các nước giàu. Đây là
cái hồ mà ông John William Yeattaw, người Mỹ, đã bơi qua để vào nhà lãnh
tụ đối lập Aung San Suu Kyi. Có thể thấy từng đàn cá con bơi bên dưới,
vài cặp tình nhân chàng che dù nàng nũng nịu ngồi tựa đầu lên vai chàng
trên ghế đá, những nhóm thanh niên nam nữ ngồi trên bãi cỏ, các ông quấn
xà rông sang trọng đang lai rai bia Myanmar nơi các bàn gỗ dưới tàng
cây rộng, nhìn khung cảnh yên bình này thật khó biết đây là cái hồ chứng
kiến một biến động gây xôn xao dư luận.
Lúc trở về, anh taxi này cũng nói chuyện xe cộ như anh trước. Anh
chỉ một chiếc Corona đời 87 đang chạy phía trước, nói chiếc đó giá
20.000 đô. Tôi chụp hình chiếc xe chạy đằng trước xuyên qua kính xe,
chụp luôn tấm thẻ lái xe có dán hình của anh ta. Chợt anh ta nói: ‘Đừng
đừng, nhớ xóa cái hình mới chụp có tên của tui.’ Anh ta có vẻ ngại ngùng
thật sự khi trong máy hình tôi có hình thẻ hành nghề của anh. Và ở các
tỉnh khác khi tôi đi qua mấy hôm sau, nhiều người lái taxi, hay ngay cả
xe ôm, đều có thái độ e dè tương tự. Họ trầm ngâm khi tôi hỏi tên để
giới thiệu lên blog cho những người bạn phượt (du lịch bụi). Họ không
trả lời, không phản đối, chỉ tư lự xa xăm.
(còn tiếp)
Tác giả giữ bản quyền © tukhanh.wordpress.com