Jefrey Bader, Viện Brookings. Washington
Phạm Gia Minh dịch
Phạm Gia Minh dịch
Các tổ chức NGO có một vai trò không ai thay thế được trong việc
theo dõi những vụ lạm dụng nhân quyền, thu hút sự chú ý của công chúng
vào những vụ vi phạm nhân quyền và kẻ thủ phạm đồng thời huy động cộng
đồng quốc tế chú ý giám sát chúng. Đó chính là một trong những đặc điểm
đáng tự hào của xã hội dân chủ có lương tâm nơi mà hoạt động của các các
nhóm gồm những người tự nguyện cam kết bảo vệ lẽ công bằng ngay cả tại
những góc khuất nẻo nhất trên hành tinh này để quyết làm cho tiếng nói
của những nạn nhân của sự bất công được thế giới nghe thấy. Chúng ta
không những không được coi thường hay đánh giá thấp các nhóm nhân quyền
này mà cần phải tôn vinh và tán dương đồng thời khuếch trương vai trò
của họ.
Chuyến đi của tôi tới Myanmar là một dịp để thể hiện những vấn
đề lớn và nhỏ trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và cũng để rà soát
xem cái gì được và cái gì chưa được. Chuyến đi đó diễn ra ngay trước khi
có thông báo về việc Tổng thống Obama sẽ viếng thăm Myanmar vào nửa sau
tháng 11 – một hành động sẽ gây chú ý vềcuộc cải cách ở xứ này đối với
Phương Tây.
Sau đây là các câu hỏi và những câu trả lời mang tính chất thăm dò:
1/ Myanmar có thực sự cải cách không?
Có vẻ là như vậy. Có rất nhiều dấu hiệu khẳng định điều này trong
chuyến đi của tôi. Các sĩ quan cao cấp mà tôi đã gặp gỡ, trao đổi một
cách đầy thuyết phục rằng họ cam kết cải cách dân chủ. Một vị Bộ trưởng
còn nhắc tới sự kiện người hùng dân chủ Aung San Suu Kyi tham gia vào
một cuộc hội thảo do Chính phủ tổ chức gần đây với thái độ tích cực. Báo
chí đăng tải một cách sinh động các cuộc tranh luận thực sự không bị
kiểm duyệt khắp nơi như cách đây 2 thập kỷ. Hình Aung San Suu Kyi và
người cha Aung San – nhân vật sáng lập nước Miến Điện ngày nay, có thể
thấy trên bức tường các quán ăn. Một phái đoàn đông đảo của Hoa Kỳ về
nhân quyền viếng thăm chính thức và gặp gỡ các sĩ quan hàng đầu Myanmar.
Người dân thường nói về những thay đổi sâu sắc trong bầu không khí toàn
xã hội, về nguyện vọng của họ được nêu lên những vấn đề mà ngay gần đây
họ còn phải sợ hãi và nín lặng.Sự thay đổi tâm trạng xã hội này đã
diễn ra sau một loạt các bước đi nhằm dỡ bỏ những nền tảng chính yếu
trong bộ máy đàn áp của Chính phủ quân sự Myanmar – đó là việc thả hàng
trăm tù chính trị, cho công khai hóa đảng đối lập Liên minh Toàn quốc vì
Dân chủ (National League for Democracy), cho phép tổ chức các cuộc biểu
tình hòa bình và tái khởi động các cuộc đàm phán với những nhóm phiến
quân dân tộc thiểu số.
2/ Vai trò của Aung San Suu Kyi và hoạt động hiện nay của bà ta?
Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật chính trị đại chúng duy nhất ở
Myanmar. Bà và đảng của bà đã thắng rõ rệt trong cuộc bầu cử hồi tháng
4/2012 sau khi bà mãn hạn quản thúc tại gia.
Có đủ lý do để tin rằng bà và đảng của bà sẽ thắng tại cuộc bầu cử
toàn quốc năm 2015 và sẽ có khả năng thành lập chính phủ.Để chuẩn bị, bà
đang tiến hành một đường lối rất thực dụng, gặp gỡ các quan chức Chính
phủ, liên kết với Tổng thống Thein Sein và phát biểu tích cực về họ
trong buổi lễ do tổ chức Huân chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ
(Congressional Gold Medal) tổ chức. Đã có những lời phàn nàn trong cộng
đồng đấu tranh vì nhân quyền ở hải ngoại về đường lối thỏa hiệp rõ ràng
của bà trong các chính sách quốc gia. Bà đang đối mặt với sự phỏng đoán
rằng đã tới lúc bà phải từ bỏ vai trò của một thần tượng để trở thành
một nhà hoạt động chính trị, cũng giống như Lech Walesa từng bị đồn đoán
là đã hợp tác với tướng Jaruzelski ở nước Balan cộng sản vào đầu những
năm 1980.
3/ Liệu có ai đó ở phương Tây đã thấy trước những gì đang diễn ra?
Có thể một vài người đâu đó ở phương Tây đã dự đoán được rằng Myanmar
sẽ cải cách dân chủ, thế nhưng theo hiểu biết chung thông thường thì
không. Các nhà phân tích tình hình Á châu cả bên trong lẫn ngoài chính
phủ, các bài xã luận trên các báo và các tổ chức nhân quyền, tất cả đều
coi thường việc thành lập chính phủ dân sự hồi tháng 4/2011 và coi những
cuộc bầu cử năm ngoái là mang tính chất gian lận, lừa dối. Họ nhìn nhận
việc thả bà Aung San Suu Kyi là không có mấy ý nghĩa chính trị và dự
đoán một tương lai chính trị u ám cho quốc gia này.
4/ Vậy thì điều đó đã xảy ra như thế nào?
Có nhiều lý thuyết nghiên cứu về quá khứ nhưng không có lý thuyết nào
hoàn toàn làm chúng ta thỏa mãn. Tuy nhiên có một yếu tố quan trọng mà
dường như nó đã khái quát hóa ước vọng muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc
ngày một gia tăng vào Trung Quốc bằng cách thiết lập nền móng cho những
mối quan hệ mới với phương Tây. Trong lịch sử, Myanmar là một quốc gia
có ý chí độc lập rất mãnh liệt, chẳng hạn như họ đã rời bỏ phong trào
Không liên kết chỉ bởi lẽ họ cảm thấy phong trào này quá liên kết. Thái
độ oán giận sự hiện diện của Trung Quốc với những nhà máy, xí nghiệp
đang chiếm lĩnh các ngành công nghiệp khai khoáng trong khi đó lại tạo
ra ít việc làm cho người Myanmar bản địa, càng ngày càng sâu sắc. Một số
chuyên gia Miến, trong đó có Thant Myint-U, cháu nội của cố Tổng thư ký
Liên Hiệp Quốc tướng U-Thant trong một bài viết đã tiên đoán về tâm
trạng mới mẻ của tầng lớp sĩ quan trẻ Myanma – những người đóng vai trò
trung tâm trong việc thúc đẩy cải cách. Các nhóm hoạt động đấu tranh vì
nhân quyền đã chỉ ra hậu quả của những năm tháng bị cấm vận nhằm thuyết
phục ban lãnh đạo đất nước có một đường lối mới phù hợp. Hành động can
dự có uy tín của ASEAN cũng góp phần đánh đổ sự chống đối của các tướng
lĩnh trước cộng đồng quốc tế. Bên trong Myanmar, các tướng lĩnh cao tuổi
dường như tin chắc rằng họ sẽ không bị trả giá về các hành vi đàn áp
trong quá khứ và tầng lớp sĩ quan nhìn chung hài lòng rằng vai trò đặc
biệt của họ trong nền chính trị Myanmar vẫn sẽ được bảo đảm bởi Hiến
pháp mà theo đó họ vẫn có những ưu tiên và đặc lợi to lớn. Cảm giác an
toàn trong hàng ngũ các cựu lãnh đạo quân đội có thể đã giúp họ sẵn sàng
chấp nhận sự mở cửa về chính trị hiện nay.
5/ Vậy thì vai trò của chính phủ Hoa Kỳ là gì?
Từ năm 1990 tới năm 2008 các chính quyền nối tiếp nhau lại được Quốc
hội thúc đẩy đã đưa ra hết biện pháp trừng phạt này đến biện pháp trừng
phạt khác đối với Myanmar – chẳng hạn như cấm các khoản đầu tư mới, cấm
nhập khẩu, nêu tên các cá nhân và công ty bị trừng phạt tài chính. Dưới
thời George W.Bush, Đệ nhất Phu nhân Laura Bush đóng một vai trò quan
trọng trong việc công khai cho thế giới biết rằng chế độ quân sự Myanmar
phải tiếp tục là mục tiêu cho sự cô lập.
Trong diễn văn nhậm chức của mình, Tổng thống Obama đã đề nghị chìa
tay ra cho các kẻ thù của nước Mỹ “nếu như họ cũng mong muốn nới lỏng
nắm đấm”. Chính sách này mang lại ít kết quả tích cực trên toàn thế
giới, ngoại trừ trường hợp Myanmar. Chính quyền (của Obama – ND) đã
quyết định sớm mở kênh ngoại giao liên hệ với lãnh đạo Myanmar do Trợ lý
Ngoại trưởng Kurt Campbell chỉ đạo nhằm đưa ra chương trình nghị sự
cho cải cách chính trị và không phổ biến vũ khí hạt nhân của Myanmar để
phía Hoa Kỳ có thể giảm nhẹ các biện pháp trừng phạt. Thiện chí của
Chính phủ Hoa Kỳ được bày tỏ ở cấp có thẩm quyền đã cung cấp một lịch
trình thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp và điều này đã giúp Chính phủ
Myanmar được động viên, khích lệ và tự tin để bước tiếp. Quyết định của
chính quyền Obama phối hợp cùng với các đồng minh Châu Âu và Australia
giảm nhẹ đáng kể các biện pháp trừng phạt hồi đầu năm nay đã có tác động
thúc đẩy hơn nữa cải cách chính trị và kinh tế vốn vô cùng cần thiết
lúc này.
6/ Có thể rút ra những bài học chung nào về việc áp dụng các
biện pháp trừng phạt như công cụ để làm thay đổi hành vi những kẻ xấu
chơi?
Các biện pháp trừng phạt đôi khi là cách hiệu quả duy nhất của Hoa Kỳ
và cộng đồng quốc tế nhằm cho các chế độ độc tài thấy hành vi của họ là
không thể chấp nhận được. Đó chính là trường hợp với Myanmar đã tiếp
diễn trong nhiều năm. Có thể nói sự trừng phạt được thực thi là phù hợp.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng các biện pháp trừng phạt bản thân không phải
là mục đích cuối cùng. Như lời của một bài hát “bạn cần biết khi nào nên
kìm giữ và khi nào thì nên ôm”. Có những thế lực bảo thủ và khó cưỡng
lại được ở Washington vẫn tiếp tục đường lối trừng phạt cho dù chính
sách đó có dẫn tới kết quả tích cực hay không. Các nhóm nhân quyền đôi
khi nhìn nhận sự trừng phạt kẻ độc tài như một biện pháp trong chính
sách hợp lý, mang tính đạo đức của chính phủ và họ còn thông tin rộng
rãi những vi phạm của các chế độ độc tài nhằm tập hợp sự ủng hộ của quần
chúng để lập quỹ hỗ trợ cho các đợt vận động áp dụng các biện pháp
trừng phạt với tư cách là sản phẩm cuối cho hoạt động của họ. Quốc hội
thì muốn chứng tỏ mình đang làm gì đó, bất kể là có hiệu quả hay không,
các chế độ độc tài bị trừng phạt nhờ đó lại trở nên được thế giới biết
đến . Động thái này là rất rõ ràng trong trường hợp đối với Cuba. Chính
sách trừng phạt Cuba được thực thi đã 50 năm nay và sự nhiệt thành ủng
hộ nó từ phía các diễn viên chính trị Hoa Kỳ vẫn không hề suy giảm,rút
cục càng củng cố sự cầm quyền của anhem nhà Castro. Mọi người, kể cả
tầng lớp chính trị Hoa Kỳ, các nhóm đấu tranh riêng rẽ và anh em nhà
Castro dường như đều hài lòng với hiện trạng đó, trừ nhân dân Cuba mới
là những nạn nhân của hoàn cảnh. Chính sách đối với Myanmar cũng được
đưa ra theo mô hình Cuba nhưng may mắn là giờ đây nó đã được tách ra
theo đường hướng khác.
7/ Liệu chính phủ Hoa Kỳ đã chuẩn bị một cơ cấu phù hợp để xử lý vấn đề kiểu như Myanmar chưa?
Kể từ thời Tổng thống Carter, đã bắt đầu gia tăng nền móng hạ tầng
các văn phòng và lực lượng nhân viên chuyên trách vấn đề nhân quyền,
được tách ra từ mảng chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Các văn
phòng này sau đó trở thành tiếng nói của cộng đồng các tổ chức nhân
quyền phi chính phủ (NGO) nhưng được đặt bên trong Chính phủ Hoa Kỳ,
đóng vai trò như cái loa của các tổ chức nhân quyền NGO, tìm cách tham
gia vào các báo cáo của Ủy ban nhân quyền Hoa Kỳ và đấu tranh ủng hộ các
biện pháp đặc biệt do các NGO đề đạt. Theo một cách nào đó, điều này
không khác biệt hoàn toàn với cái cách mà các bộ phận cử tri khác được
đại diện trong bộ máy của chính sách ngoại giao, chẳng hạn như việc
kinh doanh thì được thông qua Ủy ban Kinh tế và Văn phòng kinh doanh.
Tuy nhiên việc nhận biết các văn phòng nhân quyền với khu vực cử tri của
nó có vẻ như là lối tư duy đơn giản (cần ghi nhận rằng Trợ lý Bộ trưởng
về các vấn đề Dân chủ, Nhân quyền và Việc làm, Michel Posner thực chất
đã thoát ra khỏi sự ràng buộc này để hoạt động với tư cách là người bảo
vệ cho nhân quyền nhưng lại chú trọng vào kết quả thực tế, không thiên
về bề ngoài và mang sắc thái quan tâm tới những mục tiêu của chính sách
ngoại giao rộng lớn).
Thời gian còn là Vụ trưởng Vụ Các vấn đề Châu Á thuộc Hội đồng An
ninh Quốc gia, trong giai đoạn thay đổi chính sách của Hoa Kỳ đối với
Myanmar vào khoảng từ 2009 tới 2011 tôi đã chủ trì một số cuộc họp liên
cơ quan (còn có tên gọi là Ủy ban Chính sách liên cơ quan) bàn về
Myanmar. Thông thường, những cuộc gặp như thế đều có sự góp mặt của một
đại diện cấp cao của mỗi cơ quan và có một nhân viên trợ lý tháp tùng.
Trong trường hợp Myanmar, không ít hơn 7 văn phòng thuộc Bộ Ngoại giao,
đó là vụ Đông Á, Vụ Nhân quyền, Vụ Phái đoàn Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc,
Văn phòng liên lạc của Bộ Ngoại giao phái đoàn Hoa kỳ tại LHQ, Phái bộ
Hoa Kỳ tại các Tổ chức quốc tế ở Geneva, Đại sứ Hoa Kỳ về Tội ác chiến
tranh và cảVụ Người tỵ nạn cùng tham dự. Trong những cuộc họp như
vậy,các vụ tham dự thường mong đợi có chung một tiếng nói nhưng với 7 cơ
quan cùng tham gia và ai cũng tìm cách để tiếng nói của mình được nghe
thì quả thực là rất khó, thậm chí là không thể đạt được điều này. Một số
cơ quan rất hăng hái tìm cách lập Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh
của chế độ Myanmar ngay vào đúng thời điểm bà Aung San Suu Kyi vừa được
gỡ bỏ tình trạng bị quản thúc tại gia và đã xuất hiện những dấu hiệu
chưa rõ ràng về một sự nới lỏng đàn áp. Chỉ sau khi trao quyền cho Trợ
lý Vụ trưởng Vụ Đông Á và Thái Bình Dương được phát ngôn thay cho Bộ
Ngoại giao và chỉ đạo công tác đối ngoại mà không có các nhóm khác của
Bộ gây nhiễu thì cuối cùng chính quyền mới có thể đưa ra một đường lối
mạch lạc và thành công.
8/ Con đường nào là hữu hiệu nhất để xử lý các vấn đề có sự tham gia của những kẻ xấu chơi như chế độ Myanmar?
Các tổ chức NGO có một vai trò không ai thay thế được trong việc theo
dõi những vụ lạm dụng nhân quyền, thu hút sự chú ý của công chúng vào
những vụ vi phạm nhân quyền và kẻ thủ phạm đồng thời huy động cộng đồng
quốc tế chú ý giám sát chúng. Đó chính là một trong những đặc điểm đáng
tự hào của xã hội dân chủ có lương tâm nơi mà hoạt động của các các nhóm
gồm những người tự nguyện cam kết bảo vệ lẽ công bằng ngay cả tại những
góc khuất nẻo nhất trên hành tinh này để quyết làm cho tiếng nói của
những nạn nhân của sự bất công được thế giới nghe thấy. Chúng ta không
những không được coi thường hay đánh giá thấp các nhóm nhân quyền này mà
cần phải tôn vinh và tán dương đồng thời khuếch trương vai trò của họ.
Thế nhưng chính phủ Hoa Kỳ lại cần phải đóng một vai trò khác trong
khi vấn đề nhân quyền nhất định không được hạ thấp. Chẳng nên khuyến
khích thành lập và phát triển các văn phòng có mục đích tạo ra thêm ranh
giới giữa những quan chức chính phủ khi mà ưu tiên hàng đầu của họ là
an ninh quốc gia của chúng ta và thành công trong chính sách đối ngoại
cũng như cam kết mạnh mẽ về nhân quyền. Không nên để xảy ra tình trạng
những nhóm nhỏ các nhân vật chuyên trách thể hiện các mối quan tâm về
nhân quyềnđồng thời hành động với tư cách là đại diện của cộng đồng NGO,
trong khi các quan chức chính phủ chịu trách nhiệm về an ninh quốc gia
và chính sách đối ngoại lại phản ứng bằng câu trả lời có tính chất coi
nhẹ vấn đề nhân quyền. Cơ cấu hiện nay của chúng ta thường xuyên gây ra
các cuộc đấu khẩu mang tính hình thức ở nhiều quốc gia thuộc diện xấu
chơi (trong lĩnh vực nhân quyền – ND). Trong các trường hợp đó, những
quan chức Chính phủ chịu trách nhiệm nặng nề về an ninh quốc gia có xu
hướng quan tâm nhiều hơn tới nhân quyền khi tiếp xúc với các nước có tầm
quan trọng chính yếu về vấn đề an ninh ví dụ như TQ, Saudi Arabia và
Pakistan, tuy nhiên họ lại tỏ ra chậm trễ đối với các văn phòng nhân
quyền phụ trách các quốc gia ít quan trọng hơn trong chính sách đối
ngoại, chẳng hạn như Myanmar. Đó không thể là khuôn khổ cho sự thành
công hoặc cho một sự phát triển chính sách hợp lý. Chính phủ của chúng
ta cần làm cho các quan chức hàng đầu về an ninh quốc gia nhạy cảm hơn
đối với sự cần thiết phải thiết kế vấn đề nhân quyền trong chính sách
của mình một cách hiệu quả hơn, đồng thời nhắc nhở các văn phòng nhân
quyền rằng họ cũng cần phải tận tâm cam kết với các mục tiêu an ninh
quốc gia Hoa Kỳ rộng lớn chứ không chỉ là sự tiến bộ của chương trình
nghị sự mang tính kỹ năng đặc biệt của tổ chức NGO.
Jefrey Bader
P.G.M. dịch từ Prosspects of Political Reformes in Myanmar, Brookings News No 30.