Phạm Hồng Sơn
Quyết đấu tay đôi (duel), thường bằng kiếm hoặc súng, để tự
giải quyết một hận thù, một khúc mắc, bất đồng giữa hai cá nhân, không
cần viện tới phân xử của các thiết chế chính thống/nhà nước, là một tập
tục xuất hiện từ thời Trung cổ ở châu Âu và trở nên thịnh hành trong
giới có vị thế xã hội cao (hiệp sĩ, thượng lưu-gentlemen, chính trị
gia,…) tại châu Âu trong thời Phục Hưng. Sau đó quyết đấu tiếp tục phát
triển sang Bắc Mỹ và duy trì cho tới tận cuối thế kỷ XIX. Nguyên tắc của
quyết đấu có nhiều điều khoản và biến thể và từng được lập thành các bộ
qui tắc (code) có tính phổ quát trong dân chúng ở nhiều quốc gia châu
Âu và thậm chí còn được nhà nước pháp điển hóa như ở Pháp trong thời
Phục Hưng. Nhưng tựu trung, quyết đấu dựa trên ba nguyên tắc: bình đẳng,
minh bạch và chính trực. Vũ khí và điều kiện thực hiện cho cả hai bên
là hoàn toàn như nhau. Cuộc quyết đấu được thực hiện dưới chứng giám của
thân hữu của cả hai bên. Cả hai đều coi sự chính trực – tuân thủ tuyệt
đối các điều kiện đã được thỏa thuận, dù biết chắc nhiều phần sẽ phải bỏ
mạng vì sự tuân thủ đó, làm cái đích phải đạt được. Tuy nhiên mục đích
cao nhất của quyết đấu không phải là hạ sát đối thủ mà chỉ nhằm phục hồi
danh dự hay chứng minh cho phẩm giá toàn vẹn của mình. Do đó bên thua
(nhưng sống sót) của một cuộc quyết đấu không bao giờ ấm ức hay phàn nàn
điều gì về bên thắng và sau một cuộc quyết đấu mọi khúc mắc, hận thù
giữa hai bên đều coi như không còn. Không bên nào còn có thể coi thường
bên kia. Đa phần xã hội đương thời khi đó không lên án người sống sót
duy nhất trong quyết đấu là kẻ giết người và cũng không có ai phê phán
người bỏ mạng là kẻ dại dột.
Tính chất cao thượng của quyết đấu chắc chắn đã nằm trong khối di sản
đồ sộ và sáng rực của thời Phục Hưng châu Âu: đặt danh dự, nhân phẩm
con người lên tất cả. Khi danh dự bị tổn thương hoặc bị nghi ngờ người
ta sẵn sàng lấy tính mạng hoặc chấp nhận đối mặt với thử thách tính mạng
để bảo tồn, phục hồi danh dự bất kể danh giá, chức tước to lớn, bổng
lộc, hạnh phúc ngất trời đang tận hưởng hay sự nghiệp, tương lai rực rỡ
đang nằm ngay trong tầm tay. Évariste Galois, thiên tài toán học Pháp
đầu thế kỷ XIX, đã phóng vội những suy tư kiệt xuất về toán học ra lề
bức thư tuyệt mệnh trong đêm cuối cùng trong tuổi 21 trước khi đi quyết
đấu. Chính trị gia lập quốc, luật gia lập hiến, bộ trưởng tài chính đầu
tiên của Mỹ Alexander Hamilton không ngần ngại nhận lời đấu súng từ
đương kim phó tổng thống Mỹ Aaron Burr. Bốn thủ tướng Anh [i] trong thế
kỷ XVIII, XIX, hai người vẫn đang trên ghế thủ tướng, đã tham gia quyết
đấu. Tổng thống Abraham Lincoln cũng là người đã từng vui vẻ đi thẳng
tới một cuộc quyết đấu súng. Pushkin tài hoa và lãng mạn đã viết nhiều
về quyết đấu và cuối cùng cũng từ giã cuộc đời bằng đấu súng chỉ vì
không muốn danh dự phải dính chút đàm tiếu.
Cuộc đối thoại giữa những nông dân huyện Văn Giang – Hưng Yên với ông Đặng Hùng Võ
cựu thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi Trường ngày 08/11 mới đây, ở một vài
phương diện nào đó, có thể được coi là một cuộc “quyết đấu” nhằm giải
quyết mâu thuẫn quan điểm giữa hai bên về tính pháp lý của một số văn
bản do chính ông Đặng Hùng Võ đã ký khi tại chức và phục hồi lại phần
nào danh dự cho những người nông dân bị nhiều cáo buộc bất công khi
quyết giữ đất. Nhưng cuộc “quyết đấu” Văn Giang – Hùng Võ có vài điểm
đặc biệt cần ghi nhận.
Thứ nhất, bên đưa ra lời thách đấu là phía nông dân Văn Giang – những người không thuộc giới thượng lưu hay gentlemen
dù được gọi là những “ông bà chủ”. Thứ hai, việc nhận lời thách đấu (dù
hơi muộn [ii]) của ông Đặng Hùng Võ, chuyện hết sức bình thường đối với
giới thượng lưu châu Âu, Bắc Mỹ cổ điển, nhưng là một sự kiện, một ứng
xử đặc biệt trong giới (cựu) quan chức và cả toàn bộ giới có địa vị xã
hội cao của Việt Nam hiện nay. Và nếu chiểu theo những im lặng, lạnh
tanh đáp lại vô số những bản kiến nghị, đơn cầu khẩn, thư riêng, đơn
xin, lời nhắn nhủ công khai hay đã được để ngỏ gửi cho giới lãnh đạo
quốc gia từ gần 60 năm qua thì việc nhận lời và thực hiện cuộc “quyết
đấu” của ông Đặng Hùng Võ với nông dân Văn Giang còn có một ý nghĩa đột
phá, có giá trị tiên phong, lịch sử. Thứ ba, cơ sở cho cuộc “quyết đấu”
Văn Giang – Hùng Võ ngày 08/11 là hệ thống pháp luật hiện hành và điểm
kết thúc cho cuộc “quyết đấu” chỉ là việc làm rõ bên đúng, bên sai trên
phương diện pháp lý. Cuối cuộc “quyết đấu” ông Đặng Hùng Võ, dù có chút
tránh né [iii], đã thẳng thắn thừa nhận là sai và đã công khai xin lỗi
nông dân Văn Giang. Nhưng chỉ sau 04 ngày, trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Đặng Hùng Võ lại nói: “Khi
người dân bắt phải theo luật một cách cứng nhắc trên giấy tờ thì tôi
phải thừa nhận là sai. Tôi không thể nói là đúng theo lôgíc hình thức.”
Không hiểu ông Hùng Võ, một công dân thuộc dạng đẳng cấp cao trong xã
hội Việt Nam hiện nay, một cựu nhân viên cao cấp Chính phủ (cơ quan hành
pháp-thực thi pháp luật) của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam có ý gì khi phàn nàn về việc người dân yêu cầu bản thân ông phải
tuân thủ chặt chẽ các văn bản pháp luật? Còn “lôgíc hình thức” [sic!] mà
ông Hùng Võ nêu ra là gì, có liên quan gì đến vấn đề đúng hay sai trên
cơ sở pháp luật? Hay ông Hùng Võ đã không hoàn toàn tỉnh táo khi phát ra
những lời đó? Vậy hóa ra “hiệp sĩ” Hùng Võ trong cuộc “quyết đấu” ngày
08/11/2012 vừa qua chưa phải là người nhất quán, chính trực hay không
phải là người có tinh thần tỉnh táo, ổn định?
Truyền thuyết và sử sách châu Âu thường kể lại rằng người chuẩn bị
được phong tước vị “hiệp sĩ” (knight) phải nhận ba cái tát vào mặt để
ghi nhớ đó là lần cuối cùng được lơ là, thờ ơ trong việc giữ gìn danh
dự, nhân phẩm. Và từ đó luôn phải hành xử tuyệt đối cao thượng, không
bao giờ được thoái thác trách nhiệm hay bao biện, lẩn tránh lỗi lầm.
Ngày nay tập tục quyết đấu Trung cổ và nghi thức ba cái tát coi như
đã “tuyệt chủng” nhưng truyền thống cư xử cao thượng, trọng chính trực,
danh dự, coi phẩm giá con người là điều thiêng liêng trước mọi thứ vẫn
được lưu lại và hiển hiện rất rõ trong các xã hội dân chủ Tây Âu, Bắc Mỹ
hiện thời và truyền thống đó cũng đã được truyền sang cả những quốc gia
thành thật áp dụng mô hình chế độ dân chủ – mô hình chính trị đã tiếp
nhận và đến lượt nó lại củng cố thêm cho truyền thống trọng sự chính
trực, phẩm giá, danh dự con người. Không phải ngẫu nhiên mà ở những nước
đó giới có vị thế cao trong xã hội luôn từ chức khi thanh danh bị
thương tổn hay mới chỉ bị chạm nhẹ một chút dù là họ đang giữ chức tổng
thống, thủ tướng, sếp lớn của cơ quan trọng yếu quốc gia hay tổng giám
đốc của các công ty, tập đoàn lừng lẫy thế giới.
Nhưng văn hóa, truyền thống và phát triển là câu chuyện của những
khác biệt và tự ái dân tộc. Một trăm quốc gia sẽ có hơn một trăm nền văn
hóa và hơn một trăm cách phát triển khác nhau và rất dễ mâu thuẫn, xung
đột, rất dễ bị qui cho là dạy đời hay sính ngoại nếu lấy văn hóa, phát
triển của nước này làm chuẩn mực cho nước khác. Song, dù văn hóa nào và
phát triển nào nếu không lấy hoặc không học lấy mục đích cần tiến tới là
chính trực, phẩm giá, danh dự con NGƯỜI thì nền văn hóa ấy, sự phát
triển đó rất có thể sẽ chỉ đi tới một xã hội của một giống loài có tên
là: IỜƯGN.
© 2012 pro&contra
___________________________
[i] Hai người đang giữ chức thủ tướng: William Pitt the
Younger (1759 –1806), 2 nhiệm kì thủ tướng (1783-1801; 1804-1806), quyết
đấu năm 1798; Arthur Wellesley, 1st Duke of Wellington (1769-1852),
nhiệm kì Thủ tướng 1828-1830, quyết đấu năm 1829. Hai thủ tướng khác:
William Petty-FitzMaurice, 2nd Earl Shelburne; (1737-1805), nhiệm kì thủ
tướng (1782-1783), quyết đấu năm 1780; George Canning;(1770 –1827),
nhiệm kì thủ tướng (10/04/1827-8/08/1827), quyết đấu năm 1809.
[ii] Lá thư chất vấn của nông dân Văn Giang gửi ông Đặng Hùng Võ đề
ngày 25/10/2012 và ra hạn trong một (01) tuần ông Đặng Hùng Võ phải có
giải trình hoặc đối thoại nếu không sẽ bị người dân Văn Giang khởi kiện
ra tòa. 14 ngày sau cuộc đối thoại mới được tổ chức.
[iii] Theo tường thuật của Tiến sĩ Nguyễn Quang A,
người có mặt tại cuộc đối thoại, thì “sau hơn hai giờ trao đổi ông vẫn
không nhận mình sai khi ký các tờ trình” mặc dù “Mỗi lần ông thanh minh
hay giải thích khá lòng vòng, thì luật sư hay bà con nông dân đưa ra
những lý lẽ, bằng chứng bằng các điều khoản của luật, nghị định, thậm
chí thông tư của chính Bộ của ông để bác lại.”