Luật sư Lê Quốc Quân (Hà Nội)
Bài học đầu tiên có lẽ cần phải xác quyết rằng việc đấu tranh là để giành lấy các quyền và giá trị phổ quát của con người là cuộc đấu tranh mãi mãi. Chúng ta phải luôn ý thức được rằng nhân phẩm con người là bình đẳng.
Sau Thế chiến 2 có bốn nước bị chia cắt: Việt Nam,
Triều Tiên, Đức và Trung Quốc nhưng chỉ có Việt Nam quyết định dùng
chiến tranh trong gần 20 năm để thống nhất đất nước.
Bố tôi thở phào khi những chiếc xe tăng của nước ngoài do đồng đội
của ông lái từ Bắc Việt tràn vào húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập.
Thống nhất đất nước làm ông vui vì chiến tranh qua đi, những người
anh em không còn bắn nhau, đặc biệt ông trút được gánh nặng khủng khiếp
của câu nói: “5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa…”.
Niềm tin chiến thắng
Giống như hầu hết người dân Miền Bắc khi đó, ông nghĩ rằng việc chiến
đấu giành độc lập là đương nhiên, có thể kéo dài mãi mãi. Chiến thắng
đến sớm hơn ngày nào thì vui ngày đó nhưng nếu không đến sớm thì cả cuộc
đời họ vẫn dấn thân. Sinh ra, lớn lên, trưởng thành rồi vào nam chiến
đấu như một định mệnh.
Khi đó con người tập trung vào một điều duy nhất là “độc lập dân
tộc”. Chỉ có độc lập dân tộc mới có giá trị, chỉ khi bước qua được nấc
thang quan trọng là “giải phóng” thì mới có tất cả. Khi đó chiến tranh
đã mang màu sắc tôn giáo cực đoan, hành xác để được an lạc. Ai hy sinh
nhiều hơn, đau khổ hơn thì thấy mình tốt hơn với mong ước khi giang sơn
liền một mối sẽ tự do vui hưởng thái bình.
Nhờ xác tín điều đó mà chiến thắng đã đến sớm hơn dự định cho những
người cộng sản. Cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 ban đầu cũng chỉ
là một vài trận đánh mang tính thăm dò nhưng không ngờ chiến thắng đã
đến dễ dàng hơn, dẫn tới toàn thắng 30-4-1975.
Thực tiễn Việt Nam hôm nay
37 năm đã trôi qua, những người nông dân vẫn còng lưng đi cấy. Nhưng
khi đang lam lũ, ngẩng mặt lên vuốt vội mồ hôi là lúc bà con thấy đất
dưới chân mình trôi đi. Nó bị “cướp” đem bán cho những người khác với
giá gấp hàng ngàn lần. Vì vậy, vẫn còn đó anh Vươn tạo “bom” và bà con
Văn Giang đang đem cuốc, xẻng, gậy gộc ra đồng giữ đất.
Đất nước vẫn không ngừng động loạn, bất an. Hết cải tạo công thương
là quá trình bỏ nước ra đi, sau đó là những năm bao cấp đói đến run
người. Kể từ khi xa rời dần với Chủ nghĩa Xã hội, đất nước no bụng nhưng
bỗng đói tâm hồn. Nhân phẩm nhiều người như bị xé ra làm đôi, chắp vá.
Họ có thể hiền lành, đạo đức rồi bỗng trở nên quay quắt bất ngờ.
Đã 37 năm trôi qua, các giám đốc kinh doanh ở độ tuổi này cũng bàng
hoàng khi thấy loay hoay giữa dòng đời khi không thể giữ được mình trong
sạch và sống đúng lương tâm.
Đi đút lót thì mới có được hợp đồng, lâu rồi thành quen, phổ biến và
được thừa nhận trong đầu nhưng không thể nói ra giữa cuộc họp. Nó được
mổ xẻ ở bàn nhậu và biết là xấu nhưng vẫn phải làm.
Điểm khác biệt giữa giang hồ và quan chức là giang hồ không treo mặt
nạ đạo đức giả. Trong khi đó hàng loạt quan chức lại sống hai mặt và
đóng hai vai vừa vặn. Họ vừa là ông trùm-vừa là quan chức, tồn tại một
cách giật cục, nhiêu khê giữa lòng xã hội.
Người dân bị mất đất trong lúc phân chia giai cấp giàu nghèo ngày một mạnh
Khi thì họ đeo mặt nạ cộng sản giảng lời đạo đức và liêm chính. Khi
thì họ cáu quá, điên tiết giật mặt nạ ra và để lộ bộ mặt tư bản béo ị,
trắng trợn và công khai thách thức hàng triệu bần nông.
Nền chính trị lưỡng chuẩn (double standard) này đã tạo ra những giá
trị ma quái của cuộc sống làm cho rất khó định vị con người. Nhiều người
có vị trí cao cả về chức lẫn tiền, vẫn ngu dốt một cách hồn nhiên.
Họ pha lẫn giữa một tay chơi và một tuyên úy, rao giảng một cách lý
thuyết và vô trách nhiệm trên trên sân khấu chính trị nhưng cực kỳ thực
dụng và rất có trách nhiệm với những việc riêng ở nhà hoặc trong nhóm
lợi ích của mình.
Nhưng cũng đáng hy vọng và vui mừng vì 37 năm trôi qua, càng ngày
càng nhiều người bất chấp những khó khăn, tù đày, cô đơn và kỳ thị vẫn
âm thầm hay công khai tranh đấu cho một Việt Nam tốt hơn. Và bài học của
những người đó cho chúng ta là gì ?
Đấu tranh cho nhân quyền
Bài học đầu tiên có lẽ cần phải xác quyết rằng việc đấu tranh là để
giành lấy các quyền và giá trị phổ quát của con người là cuộc đấu tranh
mãi mãi. Chúng ta phải luôn ý thức được rằng nhân phẩm con người là bình
đẳng.
Nhân quyền là của mọi người và cho mọi người. Nhà nước sinh ra là để
đảm bảo các quyền đó được thực thi chứ không phải ngăn cấm quyền đó, vì
vậy khi nào và bất cứ ở đâu còn bị mất dân chủ, nhân quyền thì vẫn còn
đấu tranh.
Đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền khác với việc đấu tranh “giải
phóng” đã đến vào thời điểm năm 1975, nó đến từ khi con người được sinh
ra và kể cả sau lúc chết đi. Cuộc đấu tranh này là quá trình đòi lại
quyền tự nhiên cho tất cả mọi người, từ người nghèo khổ đến những vị
giàu có, từ người vô học cho đến các tri thức lớn, từ nông thôn đến
thành thị và vượt qua cả biên giới quốc gia.
Bởi vậy đấu tranh cho nhân quyền là cuộc đấu tranh miên viễn. Có thể
bước đầu tiên sẽ là đấu tranh cho một cơ chế đảm bảo tôn trọng và có khả
năng thực thi nhân quyền.
Công cuộc đó có thể là “10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn nữa”
nhưng nhất định phải đến. Những giá trị mà cả thế giới đã thừa nhận và
thực thi chắc chắn phải được triển khai trên quê hương Việt Nam. Chúng
ta không thể sống khác khi đã là một bộ phận của xã hội văn minh, của
tương quan quốc tế.
Bài học thứ hai đến từ một lẽ rất tự nhiên rằng “cướp chính quyền” là
việc của Nhà nước “còn đòi lại chính quyền” luôn luôn là việc của nhân
dân. Lịch sử đã chứng minh rằng quá trình phát triển của loài người là
quá trình giằng co “cướp” và “đòi lại”.
Mỗi một lần như vậy, người dân lại được thêm nhiều quyền hơn.
Thomas Jeffereson đã từng nói là: “nếu trong vòng 20 năm mà không có
ai đứng lên chống chính quyền đó là lúc đất nước suy thoái”. Dường như
chính quyền Mỹ ngay từ khi lập quốc đã cổ súy cho việc chống lại chính
quyền, vì họ hiểu rằng lạm dụng quyền lực là tất yếu. Đấu tranh cướp lại
quyền của dân luôn luôn là tích cực cho sự phát triển xã hội.
Mặt khác, xu hướng dân chủ đang diễn ra một cách nhanh chóng ở khắp
nơi trên thế giới, và những chế độ độc tài đang dần dần trở nên hiếm
hoi. Có câu thành ngữ đã nói “Ta cần hy vọng những điều tốt nhất nhưng
luôn chuẩn bị cho những điều tệ nhất”.
Chúng ta phải đấu tranh và tệ nhất có thể là hết đời, thậm chí đến
đời con cháu chúng ta nhưng cũng hy vọng những điều tốt nhất sẽ đến
trong tương lai không xa.
Miến Điện là một ví dụ về sự cải tổ khá ngoạn mục trong một thời gian
ngắn. Khi xác định rõ về mục tiêu chắc chắn độc tài toàn trị phải
nhường chỗ cho dân chủ, tự do, những nhà tranh đấu sẽ thanh thản và cảm
thấy cuộc đời bình an.
Bởi vậy, bài học lớn nhất, quan trọng nhất, có tính quyết định nhất
là sự ý thức triệt để và mạnh mẽ về sự tất thắng của quá trình đấu tranh
vì con người, vì một Việt Nam tiến bộ.
Giống như Hồ Chí Minh xưa đã tuyên truyền để xác định về sự tất thắng
cuộc chiến Việt Nam cho người dân Miền Bắc, hôm nay một niềm xác tín
sâu xa về công lý, sự thật, dân chủ và nhân quyền sẽ giúp tất cả các nhà
đấu tranh thêm sức mạnh.
Khi ý thức rõ rệt về con đường của dân tộc và của nhân loại, chúng ta
có thể học tập cha ông để đi làm cách mạng. Khi xưa Hồ Chí Minh lập
chiến khu và dùng súng ống để lật đổ chính quyền phong kiến dưới sự bảo
hộ của Pháp bằng phương thức bạo động.
Hôm nay chúng ta nên lập chiến khu là lòng dân, dùng phương thức bất
bạo động để lật đổ tất cả những gì là lạc hậu, chậm tiến, là độc tài,
tham nhũng đang cản đường đi lên của đất nước Việt Nam.
Nếu đồng lòng học tập và quyết tâm làm theo như vậy, chắc chắn Việt
Nam sẽ trở nên thịnh vượng như Nam Hàn hay Nhật Bản mà không cần đến 37
năm.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một luật sư đấu tranh dân chủ hiện sống tại Hà Nội.