Michael Spence & David Brady
L.V. chuyển ngữ
Nền kinh tế toàn cầu đang bị khốn đốn không còn là điều bí mật. Châu
Âu đang ở giữa một cơn khủng hoảng với nguyên nhân bắt nguồn từ sai lầm
trong cơ cấu của quá trình thống nhất kinh tế và tài chính. Hoa Kỳ, chậm
rãi đi lên từ một cơn khủng hoảng tài chính và hiện tượng hạ đòn bẩy
lan tràn, hiện đang trải qua một quá trình tăng trưởng chậm, một vấn nạn
thất nghiệp dai dẳng và một chuyển đổi nghiêm trọng trong phân bố thu
nhập cũng như những thử thách về cơ chế với quyết định về chính sách
thiếu hiệu quả và dứt khoát.
Trong khi đó, trong những nền kinh tế lớn đang lên, quá trình cách
tân của Trung Quốc đang chững lại, đợi chờ việc thay đổi hàng ngũ lãnh
đạo trong mùa thu này, vốn sẽ làm sáng tỏ hơn những mục tiêu lợi ích
nội bộ cũng như quan hệ quyền lực. Ấn Độ, vốn đã đánh mất đà tiến cải
cách, hiện đang trải qua một thời kỳ trì hoãn kinh tế và có tiềm năng
suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư.
Những ảnh hưởng tiêu cực của các khó khăn này hiện đang tương tác, bổ
sung cho nhau và lan tràn lên toàn bộ nền kinh tế toàn cầu. Tuy thế,
bất chấp mối quan ngại rõ ràng là sự tình đang diễn ra vô cùng sai lạc,
việc chẩn đoán cho một thay đổi quan trọng vẫn quá ảm đạm và ngày càng
xấu đi.
Nguyên nhân nào dẫn đến việc thiếu vắng rõ rệt những quyết định hữu
hiệu về chính sách trên một bình diện rộng lớn bao gồm các quốc gia và
khu vực như thế?
Có quan điểm qui lỗi cho một “lỗ hổng lãnh đạo” - một chẩn
đoán thường thấy tại châu Âu. Tại những nơi khác - đặc biệt là Hoa Kỳ -
nền chính trị đầy chia rẽ mang tính được ăn cả ngã về không được cho là
nguyên nhân cản trở những tiềm năng lãnh đạo chính trị có hiệu quả.
Nhưng, vì thiếu vắng sự phân tích sâu rộng hơn, nguyên nhân lỗ hổng
lãnh đạo trở thành một lời giải thích mang tính đổ đồng. Điều chúng ta
cần biết là tại sao những thành phần lãnh đạo mới tại các quốc gia dân chủ như Pháp, Anh, Nhật và Hoa Kỳ đã không đưa ra được thay đổi nhỏ nào.
Một giải thích thứ hai nhằm trả lời cho câu hỏi ấy là: Trong khi cần
có những hành động cứng rắn, tính phức tạp của những điều kiện kinh tế,
và sự thiếu nhất trí về biện pháp chính trị đúng đắn nào cần có, cho
thấy một rủi ro từ một sai lầm nghiêm trọng. Đối với những nhà chính trị
và cầm quyền chuyên nghiệp trong những hoàn cảnh này, làm ít có thể là
nhiều. Trên quan điểm này, tâm lý ngại mạo hiểm vừa phản ảnh lại vừa
củng cố sự khác biệt giữa những động cơ cá nhân (lòng mong muốn được tái
đắc cử, tái bổ nhiệm, hoặc được thăng tiến), và những nhu cầu chung
(khắc phục các khó khăn).
Câu trả lời thứ ba là các công cụ chính trị thì đơn giản là không hữu
hiệu trong điều kiện hiện tại. Giải thích này cũng có một số giá trị.
Việc hạ đòn bẩy kinh tế cần có thời gian. Việc tái lập những mô hình
tăng trưởng lâu bền cần kéo dài nhiều năm chứ không phải vài tháng. Kết
quả trông đợi có thể nằm ngoài nền tảng của thực tế. Nhưng sự thiếu vắng
của một giải pháp nhanh chóng không có nghĩa rằng không thể làm được
điều gì để tăng cường vận tốc và chất lượng của quá trình phục hồi kinh
tế.
Những quyền lợi cố hữu cũng có thể đóng một vai trò trong vấn đề này.
Những sức mạnh của phát kiến công nghệ và thị trường toàn cầu đã tạo ra
một chuyển đổi quan trọng về thu nhập đến lợi nhuận và thành phần 20%
trong nấc thang phân chia thu nhập, thường là với cái giá của thành phần
thu nhập hạng trung, thành phần thất nghiệp và giới trẻ. Lợi nhuận của
những xu hướng này có thể đã huy động đủ nhiều ảnh hưởng chính trị để
giữ nguyên tình trạng hiện tại, làm nổi bật những vấn đề về phân
chia thu nhập vốn thường không được lưu ý đến trong việc hiểu rõ những
phản ứng về chính sách hoặc sự thiếu vắng của những phản ứng này.
Cũng có những giải thích mang tính cơ cấu đối với việc thiếu vắng
chính sách. Hệ thống chính quyền và cơ cấu hiến pháp khác nhau đến mức
chúng cần có một mối đồng thuận rộng rãi để có quyết định chính thức,
hoặc để thay đổi chiều hướng chính sách khi phản ứng lại những cú sốc
hoặc sự chuyển hướng của điều kiện.
Một số cho rằng những hệ thống chính trị bị ràng buộc hơn thì vận
hành tốt trong thời điểm ổn định, nhưng lại hoạt động kém dưới điều kiện
biến động, tương tự như tình hình đang phổ biến hiện tại. Những người
khác ủng hộ chính quyền bị ràng buộc trên cơ sở rằng nó bảo vệ mọi người
khỏi những tệ nạn phí phạm, tìm kiếm đặc lợi và can thiệp vào quyền tự
do lựa chọn, và điều ấy, khi cần, giới lãnh đạo được hứng khởi có thể
gây dựng được sự đồng thuận cần có nhằm giải quyết những hoàn cảnh thay
đổi. Những trở ngại lớn trong thay đổi quan trọng về hướng đi của chính
sách bắt buộc các quan chức đưa ra phương cách có tính thuyết phục cao.
Điều này vốn đã là một việc làm khó trong thời điểm mà sự thay đổi
nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu đã làm nhiều người vẫn đang tìm
cách hiểu được điều gì đang xảy ra và nó mang ý nghĩa gì đối với sự tăng
trưởng, ổn định, sự phân chia thu nhập và công ăn việc làm. Trước một
vấn đề phức tạp như thế, không gì ngạc nhiên khi những bất đồng thật sự
về chính sách sẽ dẫn đến việc tranh cãi triền miên và tương đối ít hành
động.
Hơn nữa, những thành phần kỹ trị trong chính quyền phải thường xuyên
được cân bằng với tính trách nhiệm dân chủ. Trong mọi xã hội, các cá
nhân được đào tạo đặc biệt và có kinh nghiệm đặc biệt được bổ nhiệm để
vận hành những chức năng kỹ thuật phức tạp. Quyền tự do hành động của họ
bị ràng buộc bởi thời hạn và những quá trình tái bổ nhiệm vốn sẽ quyết
định bản chất và mức độ trách nhiệm của họ đối với các quan chức do dân
cử và công chúng. Có thể có quá ít quyền tự do hành động (dân tuý) hoặc
quá ít trách nhiệm (chuyên quyền).
Sự quân bình cần thiết này có thể khác nhau tuỳ theo những điều kiện
địa phương. Ví du như nhiều nhà quan sát về Trung Quốc tin rằng tính
trách nhiệm ở quốc gia này cần được tăng thêm trong giai đoạn hiện tại
của cuộc cách mạng kinh tế, xã hội và chính trị. Những người khác cho
rằng các nền dân chủ phương Tây lại có khó khăn ngược lại: sự bội thực
của những quyền lợi chuyên chính trị đã dẫn đến việc thiếu đầu tư và kém
cân bằng giữa những cơ hội và khả năng hiện tại so với tương lai.
Điều này đưa đến cho chúng ta một chướng ngại vật quan trọng: Giới
lãnh đạo chính quyền, doanh nghiệp, tài chính và học thuật thì không
được tin tưởng. Sự thiếu vắng niềm tin vào giới tinh tuyển có thể tốt
trong vài mức độ, nhưng hàng loạt những thăm dò cho thấy rằng nó đang
suy giảm nhanh chóng, chắc chắn tăng cường việc người dân miễn cưỡng
trao quyền cho chính phủ để lèo lái trong một môi trường kinh tế toàn
cầu đầy bấp bênh.
Nạn thiếu vắng lòng tin có thể có nhiều nguyên nhân, bao gồm sự thất
bại trong phân tích: những ngân hàng trung ương, giới đầu tư thị trường,
các cơ quan đánh giá tín dụng, và những nhà kinh tế đều hầu như đều sai
lầm khi dự đoán sự đi lên của mối rủi ro mang tính hệ thống trong những
năm trước khi cơn khủng hoảng này xảy ra, nói gì đến việc đưa ra những
hành động sửa đổi đúng đắn. Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn nữa là sự
nghi ngờ rằng giới lãnh đạo đang đặt quyền lợi của mình lên trên những
giá trị chung của xã hội.
Những giả thuyết rằng giới lãnh đạo, các cơ quan, các nhà phân tích,
hoặc các công cụ chính sách thì đã lạc hậu cho nhiệm vụ hiện thời rõ
ràng là có chứa đựng một phần sự thật. Nhưng vấn đề sâu đậm hơn chính là
sự tan vỡ của chính những giá trị và mục tiêu - đó là sự suy giảm của
chất keo xã hội. Hàn gắn lại nó sẽ cần đến các nhà phân tích, giới lãnh
đạo, những người đứng đầu doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự cùng
làm sáng tỏ những nguyên nhân, chia xẻ lỗi lầm, theo đuổi những giải
pháp uyển chuyển trong đó phí tổn được chia đều và đặc biệt là, giải
thích rằng những khó khăn nghiêm trọng thì không thể được giải quyết qua
đêm được.
Nguồn: Project-syndicate.org