Nguyễn Thu Trâm (Danlambao) - Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn, và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là “kích thành phần”. Có nghĩa là, theo luật cải cách ruộng đất mà ông Hồ Chí Minh đã phê thuận thì ở mỗi làng, mỗi xã phải có 5,68% dân số phải bị đưa ra đấu tố, bị đưa đi cải tạo, hoặc bị hành quyết tại chỗ và để hoàn thành được chỉ tiêu này của đội cải cách, hàng chục ngàn nông dân ở miền Bắc đã bị quy thành địa chủ cường hào chỉ vì gia sản của họ gồm 1 bò, 1 heo và 1 đàn gà, mà nếu quy đổi theo giá thị trường hiện nay thì chắc gia sản của họ không thể vượt qua con số 500 Mỹ kim, tức là bằng khoảng một phần triệu tài sản của “Bầu Kiên”.
*
Những ngày qua, dư luận trong và ngoài nước trở nên nóng hơn trước thông tin “Bầu Kiên”, một “doanh nhân thành đạt, một trong 100 người giàu nhất Việt Nam”, một tài phiệt đỏ vừa bị cơ quan cảnh sát điều tra của CSVN bắt giữ.
Thông tin về vụ việc bắt giữ “Bầu Kiên” được đăng tải đầy dẫy trên các trang báo cả lề đảng, lề dân cũng như cả trên một số báo chí nước ngoài. Công chúng đón nhận thông tin trên với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: Tất nhiên, chẳng mấy ai thù ghét gì “ông trùm” chỉ vì cái giàu có của ông ấy, bởi xét cho cùng, giàu nghèo đâu phải là tội, người ta chỉ vui mừng vì ít nhất cũng thấy được những dấu chỉ cho thấy cái ngày mà Việt Nam trở nên giống như các nước XHCN ở Đông Âu vào cuối thập niên 1980S và đầu thập niên 1990s sẽ không còn quá xa vời nữa.
Riêng tôi, khi đọc được những thông tin về “Bầu Kiên” tôi không thể nào kìm nén được “phức cảm” của mình và tôi càng đọc thêm thông tin, càng phải chạnh lòng bởi những cảnh đau thương của dân tộc Việt Nam, của đồng bào miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cứ lần lượt hiện về trong tâm thức của tôi như một thiên thời sự về những thương đau tang tóc của dân tộc Việt.
Xin được trở lại với những tháng ngày tăm tối của nông dân Bắc Việt vào thời kỳ cải cách ruộng đất 1953-1956, là chương trình nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là “bóc lột”, “phản quốc” (theo Pháp, chống lại đất nước), “phản động” (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập… được ông Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ. Đây là một trong những phương cách chính yếu mà Hồ Chí Minh và những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Như trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Đó chính là cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam tiến hành cuộc cải cách ruộng đất này, mà theo đó, tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng – sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa – sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu – sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông.
Một gia đình nông dân có 2 con lợn đã có thể gọi là phú nông, sẵn sàng bắt giam để đưa ra đấu tố. Một gia đình nông dân sở hữu 3 sào Bắc Bộ đã có thể gọi là địa chủ, sẵn sàng bắt giam, đưa ra đấu tố và hành quyết ngay trước tòa án nhân dân.
Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn, và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là “kích thành phần”. Có nghĩa là, theo luật cải cách ruộng đất mà ông Hồ Chí Minh đã phê thuận thì ở mỗi làng, mỗi xã phải có 5,68% dân số phải bị đưa ra đấu tố, bị đưa đi cải tạo, hoặc bị hành quyết tại chỗ và để hoàn thành được chỉ tiêu này của đội cải cách, hàng chục ngàn nông dân ở miền Bắc đã bị quy thành địa chủ cường hào chỉ vì gia sản của họ gồm 1 bò, 1 heo và 1 đàn gà, mà nếu quy đổi theo giá thị trường hiện nay thì chắc gia sản của họ không thể vượt qua con số 500 Mỹ kim, tức là bằng khoảng một phần triệu tài sản của “Bầu Kiên”.
Cũng cần nhắc lại rằng phát súng đầu tiên nổ vào đầu một phụ nữ là bà Nguyễn Thị Năm, tức bà chủ hiệu buôn Cát Thanh Long, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Giảng, và cũng là một đại ân nhân của Hồ Chí Minh, của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chỉ vì bà “Má Năm” là một thương gia giàu có, mà đã là địa chủ, phú nông, đã là giàu có thì không còn là “nhân dân” nữa, mà họ chính là “kẻ thù của nhân dân”, bởi giàu có tức là “bóc lột”, là “hút máu mủ của nhân dân”! Cho dù tài sản của “Má Năm” cũng chưa bằng một phần triệu tài sản của ông “Bầu Kiên” hiện nay!
Và xin một lần nữa, được trở lại với đồng bào miền Nam sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975 với những chuỗi ngày thảm họa bởi chính sách “cải tạo công thương nghiệp” và chính sách “đánh đổ tư sản”. Về bối cảnh lịch sử, cho đến ngày miền Nam hoàn toàn rơi vào tay cộng quân Bắc Việt, Sài Gòn đã có cả một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam và khu vực, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Trung, miền Nam. Ở đây tập trung hơn 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8.548 cơ sở công nghiệp tư nhân.
Sau đó, để công hữu hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động lên làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau năm 1975 nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 nhà tư sản mại bản, 59 tư sản công thương nghiệp cỡ lớn, tạo ra 400 xí nghiệp quốc doanh, 14.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thu hút 270.000 công nhân và lao động, vận động hồi hương lập nghiệp mà thực chất là xua đuổi bớt thị dân về nông thôn lập nghiệp và đón nhiều đợt di dân đường dài từ miền Bắc XHCN vào miền Nam mà chủ yếu là vào Sài gòn để làm cán bộ nòng cốt trong tất cả các cơ quan hành chánh công quyền cũng như tất cả các công ty, nhà máy xí nghiệp, và từng bước phân bố lại lao động.
Trên thực tế, hầu hết những nhà tư sản lớn của Sài Gòn thời đó phần lớn đã di tản ra nước ngoài, thành phố chỉ còn các doanh nghiệp loại vừa như các chủ nhà in, chủ xưởng thủ công, chủ cửa hàng, cửa hiệu… Các ông chủ này; kể cả những người làm nghề chuyên môn và chỉ là tiểu chủ như chủ hiệu thuốc tây đều bị buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng rồi trưng thu, tịch thu, trưng mua và buộc họ không được làm kinh doanh, phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp, nhiều người phải rời khỏi thành phố. Nhiều cửa hàng nhỏ, vốn liếng chẳng có bao nhiêu, một số tiệm ăn, tiệm cà phê… cũng bị niêm phong, định giá và chuyển qua sản xuất quốc doanh, hợp tác xã.
Để thực thi, những tổ công tác mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những gia đình giàu có phải vào diện “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt mà chủ yếu là những cán bộ “nằm vùng” trước đây, bất ngờ có xuất hiện trong nhà, đọc quyết định “kê biên tài sản” của họ.
Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch thu trở thành tài sản công và thường sẽ thành một cửa hàng quốc doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ. Tài sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình đó phải chuẩn bị nhận quyết định đi “xây dựng vùng kinh tế mới”. Hàng triệu người sau một đêm ngủ bỗng trở nên trắng tay, trở nên người vô gia cư, bởi nhà ở, cơ sở kinh doanh, sản xuất của họ bỗng thay ngôi đổi chủ chỉ sau một đêm ngủ. Từ những thương gia, những công chức văn phòng họ bỗng trở thành những nông dân bất đắc dĩ, bởi trong đời chưa một lần biết đến cày bừa, gieo cấy là gì… Và không ít người đã quẫn trí, tự kết liễu cuộc đời bằng nhờ hình thức tự tử khác nhau… Tất cả chỉ vì họ bỗng nhiên bị biến thành kẻ thù của dân tộc, của nhân dân, họ bị biến thành “thành phần bóc lột, chuyên hút máu mủ của nhân dân”. Tất cả xuất phát từ quan niệm đầu tiên của những con người cộng sản cho rằng các ông bà chủ chuyên ăn trắng mặc trơn, chỉ bóc lột nên nay cần phải cho đi cải tạo để họ thành những “con người mới XHCN”. Do đó đích đến của họ thường là các vùng kinh tế mới ở chốn rừng thiêng nước độc… Chỉ vì họ là những người giàu có, mà tài sản của họ chắc gì đã bằng được một phần triệu tổng tài sản của “Bầu Kiên” hiện nay.
Như một giọt nước tràn ly… Chính cái chính sách “Bần Cùng Hóa” nhân dân miền Nam, để xóa bỏ hoàn toàn chế độ “Người Bóc Lột Người” này của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tạo ra cảnh loạn nhân tâm, hệ quả là hàng triệu người Việt phải băng rừng lội suối hoặc phải vượt ngàn trùng sóng gió của Đại Dương, ngay cả trên những con thuyền hết sức mong manh để đi tìm tự do, đi tìm công lý và quyền sống, mà theo thống kê của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thì có tới 1.750.000 người trong số họ đã mất mạng trên đường đi tìm tự do đó. Đau thương quá cho dân tộc Việt vốn đã quá đau thương trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nhưng có lẽ chưa bao giờ dân tộc Việt lại đau thương như trong giai đoạn lịch sử này, dưới ách thống trị của chế độ cộng sản, bởi đối với những con người cộng sản ngày ấy, nghèo hèn là yêu nước và ngược lại giàu sang phú quý là phản quốc, là kẻ thù của dân tộc!
Bởi vậy mà hiện nay, đa phần người dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đều là những người “yêu nước”, “yêu chủ nghĩa xã hội”, bởi hầu hết đều nghèo đói đều cơ hàn, cơm không đủ no áo không đủ ấm, bởi tài nguyên quốc gia đều đã bị sang bán cho ngoại bang, tài sản quốc gia lọt thỏm vào tay của khoảng 3 triệu đảng viên cùng 14 “Đầy Tớ Nhân Dân” là những ủy viên bộ chính trị cũng như trong tay của những ông trùm như “Bầu Kiên” vậy.
Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei), xuất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848, được viết bởi các nhà lý thuyết cộng sản Friedrich Engels và Karl Marx, kêu gọi hành động cho một cuộc cách mạng vô sản để lật đổ trật tự xã hội tư sản và cuối cùng sẽ mang lại một xã hội cộng sản chủ nghĩa với 10 phương pháp nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản như sau:
1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.
2. Áp dụng thuế lũy tiến cao.
3. Xóa bỏ quyền thừa kế
4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn
5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.
6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước.
7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cấy cầy và cải tạo ruộng đất trong một kế hoạch chung.
8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp.
9. Kết hợp nông nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn.
10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các khu công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất,…
Chúng ta hãy thử một lần nhìn lại 10 điều tóm tắt của tuyên ngôn đó để so sánh với hiện thực ở đất nước cộng sản Việt Nam này để thấy rõ ràng rằng, tuyên ngôn của đảng cộng sản chỉ là một loại bịp bợm, rác rưởi để lừa bịp nhân loại về một “Thiên Đường XHCN” nơi trần thế mà Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam cũng đã áp dụng để lừa đảo cả dân tộc Việt Nam về công cuộc giải phóng đất nước, xây dựng một chế độ XHCN công bằng, văn minh, không có “người bóc lột người”. Bởi thực trạng xã hội Việt Nam ngày nay cho thấy rằng thực chất Hồ Chí Minh và những người cộng sản chỉ dùng chiêu bài đó để lừa bịp toàn dân để lới dụng máu xương của nhân dân cho mục đích tranh giành quyền cai trị đất nước, để được hưởng trọn những đặc quyền đặc lợi của những kẻ thống trị mà thôi, bởi tất cả những gì đã diễn ra, đang diễn ra trên đất nước này, và cả trên thành trì XHCN Bắc Triều Tiên nữa, đều ngược lại hoàn toàn với tất cả những gì đã ghi trong Bản Tuyên Ngôn của đảng cộng sản: Những kẻ nắm quyền cai trị đất nước vẫn đang tìm mọi cách để duy trì chế độ thừa kế nắm quyền. Khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị càng ngày càng lớn, Giáo dục, y tế cũng là đặc quyền đặc lợi của những người giàu có như các ông trùm “Bầu Kiên” và cháu con của họ, còn những gia đình nông dân nghèo làm sao có đủ tiền để cho con cái họ được hưởng lợi từ nền giáo dục quốc gia kho mà mức học phí quá cao so với thu nhập quá thấp của nông dân hay công nhân hiện nay?
Thực ra không ai có thể tính được rằng nếu tập trung tất cả của cải, tài sản của tất cả nông dân ở Đồng Bằng Sông Cửu Long lại liệu đã có giá trị tương đương với khối tài sản của ông “Bầu Kiên” chưa? Và hiện nay ở Hà Nội, ở Việt Nam có bao nhiêu “Bầu Kiên” như vậy? Những người cộng sản đang cai trị đất nước Việt Nam có thể trả lời cho toàn dân Việt những câu hỏi tương tự như thế được không? Thực ra có phải đảng cộng sản Việt Nam tiến hành “giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc” để xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do, hạnh phúc, một xã hội Việt Nam công bằng, văn minh hay chỉ cốt lợi dụng máu xương của đồng bào để giành đặc quyền đặc lợi cho riêng giai cấp thống trị và các thế hệ cháu con?
Nếu vẫn còn lương tri và có lòng tự trọng, những kẻ đang nắm quyền cai trị đất nước hãy mạnh dạn nói lời xin lỗi với toàn dân Việt Nam về những lừa lọc, bịp bợm cả dân tộc trong suốt non một thế kỷ qua, hãy chân thành nói lời xin lỗi với các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại đã vì những chính sách man rợ của cộng sản mà phải rời bỏ tổ quốc của mình để sống đời lưu vong nơi xứ lạ, và cả bộ chính trị, cả 3 triệu đảng viên cộng sản phải lập đàn cúng tế và ăn năn tội với oan hồn của hàng triệu nạn nhân của chế độ cộng sản đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để giành quyền thống trị và những đặc quyền, đặc lợi cho những người cộng sản, và hãy cầu xin những oan hồn của hàng triệu đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả và trong các trại tỵ nạn, trên đường đi tìm tự do, đi lánh nạn cộng sản.
Cuối cùng, xin những người cộng sản đang nắm quyền cai trị đất nước hiểu rằng, đất nước này là của dân tộc Việt Nam, của 90 triệu đồng bào trong nước và hơn 10 triệu đồng bào Việt Nam đang sống lưu vong ở hải ngoại, chứ tuyệt nhiên, đất nước này không phải của riêng đảng cộng sản hay của những tên trùm như “Bầu Kiên” hay “Ba Dũng”… Để đừng tiếp tục đè đầu cưởi cổ toàn dân Việt nữa, đừng biến cả dân tộc Việt thành những người dân đen, suốt đời chỉ biết còng lưng làm lụng để để mang về “ngàn tỷ”, “ngàn ngàn tỷ” cho những người lưng thẳng như những “Bầu Kiên”, “Ba Dũng”, “Tư Sang”… và các “Bầu” khác trong bộ chính trị trung ương đảng cộng sản. Nếu không, quý vị sẽ ngàn đời đắc tội với hồn thiêng sống núi Việt Nam và đắc tội với cả dân tộc Việt Nam nữa.
Xin đừng để những người con của Đất Việt cứ phải suốt đời khóc nước thương dân.
Biệt thự của bầu Kiên nằm trên phố Xuân Diệu,
phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
Biệt thự của bầu Kiên nằm trên phố Xuân Diệu,
phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
Biệt thự luôn có 3-4 bảo vệ túc trực. Chiều 21/8,
cổng chính đã khóa, khách đến nhà phải đi vòng ra cửa sau.
Ngôi biệt thự diện tích khoảng 500m2, có 3 mặt tiền, tường rào cao 3 mét.
Theo người dân xung quanh, ngôi biệt thự được xây cách đây vài năm.
Vợ chồng ông Kiên ít khi quan hệ với hàng xóm.
Đường đi lát đá. Từng góc nhỏ của khuôn viên đều có cây xanh.
Bể bơi khoảng 100 m2 khiến biệt thự như một khách sạn cao cấp
Siêu xe Bentley biển đẹp của tư bản đỏ “bầu” Kiên
Bangkok, Thailand ngày 22 tháng 8 năm 2012