Nguyễn Minh Cần      
Chưa bao giờ vấn đề nông dân Việt Nam đặt ra một cách cấp thiết
 trước phong trào dân chủ nước ta như hiện nay. Nông dân là khối người 
đông đảo chiếm đến trên 70% dân số cả nước. Bằng lao động cực nhọc của 
mình, từ nghìn xưa cho đến ngày nay họ đã và đang nuôi sống dân ta. Từ 
năm 1993 đến nay, nông dân đã góp phần tăng sản lượng nông nghiệp lên 
gấp đôi và tăng khối lượng xuất khẩu nông phẩm của nước ta ra thế giới, 
nhờ đó đến năm 2008, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nhất nhì trên 
toàn cầu về gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, cá, tôm... Theo Tổ chức Lương 
thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc, thu nhập của hai phần ba dân số Việt
 Nam phụ thuộc vào ngành nông nghiệp. Thế nhưng, khốn thay, từ trước đến
 nay, nông dân nước ta đã bị kẻ cầm quyền ngược đãi, đối xử rất tàn tệ 
và, kể từ năm 1930 cho đến nay, họ luôn luôn là đối tượng của cái chính 
trị lừa bịp của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Những quả lừa “vĩ đại” của ĐCS
Quả lừa đầu tiên là cái khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà ĐCSVN đưa 
ra ngay từ khi đảng mới ra đời, nghe rất bùi tai nông dân khi... ĐCS 
chưa cướp được chính quyền. Hồi đó, ĐCS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, 
gọi nông dân là "hậu bị quân", là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng”
 đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng của mình hết lòng ủng hộ
 ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS
 sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!
Quả lừa tiếp theo là ĐCS “phát động cải cách ruộng đất” nói là để tiêu diệt giai cấp địa chủ, tước đoạt ruộng đất của giai cấp này chia cho dân cày, trước nhất là bần cố nông. “Thắng lợi vẻ vang”
 (!) của  cuộc CCRĐ hồi giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, báo chí đã 
nói nhiều, giờ chỉ xin nhắc lại vài điều thôi. CCRĐ thực sự là một cuộc 
thảm sát có tính diệt chủng đã làm cho 172 nghìn 008 người dân ở nông 
thôn, chủ yếu là nông dân, trở thành nạn nhân, nghĩa là bị bắn giết, đọa
 đày đến chết, trong số đó 123 nghìn 266 người (tức là 71,66%) về sau 
được xác nhận là oan; riêng 26 nghìn 453 người bị quy là địa chủ cường 
hào gian ác thì có đến 20 nghìn 493 người (tức là 74,4%) được xác nhận 
là oan! Còn 62 nghìn người bị quy là phú nông thì có đến 51 nghìn 003 
người (tức là 82%) được xác nhận là oan! Trong số những người bị oan 
cũng có hàng nghìn cán bộ, đảng viên cộng sản (tài liệu chính thức trích
 từ cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 2). Đó là chưa nói đến những hậu 
quả nguy hại khác của cuộc tàn phá khủng khiếp ở nông thôn mà ĐCS gọi là
 “cuộc cách mạng long trời lở đất” là: bằng cuộc CCRĐ theo 
khuôn mẫu Mao-ít, ĐCS đã phá vỡ truyền thống tốt đẹp, hòa hiếu, thương 
yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn mà cha ông ta đã tạo dựng hàng mấy 
nghìn năm trước; đã phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc và tạo nên 
một lối sống giả dối, man trá, điêu toa, vu khống, bất nhân mở đầu cho 
sự băng hoại đạo đức, nhân cách sau này; đã phá hủy cuộc sống tâm linh 
vốn có lâu đời, vì chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ, những nơi thờ tự... 
đều bị phá phách, triệt hạ... CCRĐ kết thúc, một số bần cố nông hớn hở 
được nhận ruộng tưởng rằng “ước mơ ngàn đời” của họ đã bắt đầu được thực hiện. Họ được chụp ảnh, quay phim để ĐCS tuyên truyền khoe khoang “công ơn”
 của đảng đối với nông dân, thì... chưa đầy một năm sau, ĐCS đã lùa 
những bần cố nông đó, cùng các nông dân khác bắt họ đem ruộng đất tư vốn
 có của họ vào hợp tác xã, vô hình trung ĐCS tước đoạt mất quyền tư hữu 
mà giao ruộng đất của họ cho các chủ nhiệm hợp tác xã quản lý. Đấy, ĐCS 
đã thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” một cách bịp bợm như vậy! 
Đến quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của ĐCSVN đối với nông dân
 và nói chung cả với toàn dân ta, là... khi soạn thảo và thông qua Hiến 
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của 
Hiến pháp, ĐCS đã nhẹ nhàng, gần như thầm lặng, không “long trời lở đất”
 tí nào, chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, 
nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái
 gọi là “sở hữu toàn dân”! Từ đây, thực tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa”
 ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của 
người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong 
tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, ĐCSVN 
thực tế đã tự biến mình thành một siêu đại địa chủ. Đến
 lần sửa đổi hiến pháp năm 1992, điều 19 Hiến pháp năm 1980 lại được đổi
 thành điều 17 cũng với nội dung giống như lần trước. Cả hai Hiến pháp 
Việt Nam năm 1980 và năm 1992 đều nhằm mục tiêu tước đoạt quyền tư hữu 
ruộng đất của người dân, đều vi phạm nghiêm trọng điều 17 Tuyên ngôn 
quốc tế Nhân quyền mà Việt Nam đã ký và cam kết thực hiện.
       “Sở hữu toàn dân” là một hư ảo, một điều bịa đặt của 
các lãnh tụ cộng sản, nó hoàn toàn phi lý, trái ngược với bản tính con 
người - và cả con vật nữa - từ nghìn xưa đến nay luôn luôn muốn có tư 
hữu, mà cái bản tính đó chính là động cơ thúc đẩy xã hội loài người tiến
 bộ mãi. Cho nên cái gọi là “sở hữu toàn dân” chỉ là tấm màn dối trá che đậy âm mưu của ĐCS cướp đoạt ruộng đất của người dân, vì thế người viết bài này mới dùng từ “đảng hữu hóa” là ý như vậy. Xin bạn đọc hãy xem điều 1 Luật đất đai năm 1993 ghi rành rọt: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”,
 mà nhà nước dưới chế độ cực quyền toàn trị thì chính là ĐCS đứng đầu là
 Bộ chính trị, chứ còn ai khác? Hãy xem Luật đất đai năm 2003, ở đấy còn
 ghi trắng trợn hơn nữa: “Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai”. Như vậy, ĐCS tự nhận mình là “quản lý” của “chủ sở hữu toàn dân về đất đai”, nói trắng ra là siêu đại địa chủ nắm toàn bộ ruộng đất của cả nước! Đây là quả lừa xảo trá nhất, đê tiện nhất, phản bội lại tất cả những lời ĐCS đã hứa hẹn về “người cày có ruộng”! Không những là siêu đại địa chủ, ĐCS còn là siêu đại địa chủ cường hào ác bá  nhất nước,
 luôn luôn sẵn sàng cướp đoạt ruộng đất của dân, luôn luôn sẵn sàng huy 
động công an, quân đặc nhiệm, bộ đội, tòa án... đàn áp thẳng tay mọi 
cuộc phản kháng của người dân “thấp cổ bé họng” muốn chống lại sự “cưỡng chế”
 của đảng. Còn ở các địa phương, các cán bộ lãnh đạo noi gương kẻ cầm 
quyền cấp trên cũng nhanh chóng tự biến mình thành những địa chủ cường 
hào gian ác còn tồi tệ hơn cả dưới thời phong kiến. Đám địa chủ “thẻ đỏ tim đen” này không sợ ai hết, vì chúng nắm trong tay toàn bộ các cơ quan quyền lực, cả công an, cả kiểm sát lẫn tòa án... 
        Để thực hiện Hiến pháp năm 1980 và 1992, nhà nước đã ba lần 
ban hành Luật đất đai vào năm 1987, 1993, 2003 và hai lần sửa đổi vào 
năm 1998, 2001 với hàng trăm văn bản dưới luật nhiều lần sửa đi sửa lại!
 Những luật và văn bản này rất rối rắm, chồng chéo nhau, mâu thuẫn nhau,
 tạo ra vô số kẽ hở cho đám quan lại cộng sản tha hồ tham nhũng. 
        Như vậy, bằng những quả lừa xảo quyệt nói trên, các lãnh tụ 
của ĐCSVN, từ Hồ Chí Minh trở xuống đã từng bước tước đoạt quyền tư hữu 
ruộng đất của người dân, trước hết là của nông dân, họ trắng trợn phản 
bội lại quyền lợi của nông dân mà trước đây họ tâng bốc là "hậu bị quân", là “một trong những chủ lực quân”
 của cách mạng! Vì thế, dưới cái chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của 
ĐCS, thân phận người nông dân vốn đã bèo bọt, thảm hại lại càng bèo bọt,
 thảm hại hơn bội phần. 
Thảm kịch "dân oan"
Chính vì thế, từ những năm 80 thế kỷ trước – tức là sau khi Hiến pháp “xã hội chủ nghĩa” được ban hành, trên đất nước ta xuất hiện thảm kịch “dân oan” thời “đổi mới” ở khắp nơi. Vì sao có thảm kịch “dân oan”?
 Vì người dân, nhất là nông dân, đã mất quyền sở hữu, nói chính xác hơn 
là mất quyền tư hữu ruộng đất của mình, họ chỉ có quyền sử dụng ruộng 
đất của “nhà nước” có hạn định mà thôi, và ĐCS với danh nghĩa nhà nước 
hay chính phủ, muốn thu hồi, trưng thu, tước đoạt, hay “cưỡng chế” lúc nào cũng được. Khi thu hồi, kẻ cầm quyền bồi thường cho người dân một số tiền “tượng trưng”,
 chưa bằng một phần mười giá thực tế, còn bọn tham quan ô lại xà xẻo bớt
 nữa, nên người dân càng thiệt thòi hơn. Có lắm khi các “quan lớn”
 cộng sản vẽ vời ra những dự án đô thị hóa, công nghiệp hóa... đồ sộ, 
không thực tế, rồi cưỡng chế thu lại ruộng đất của dân (xót xa nhất là 
ruộng đất màu mỡ đã thâm canh), thu xong rồi bỏ đấy chờ được phê duyệt, 
ruộng đất màu mỡ nằm năm này qua năm khác, có khi hàng chục năm, đã trở 
thành đất hoang... Thế là đám tham quan ô lại bày mưu tính kế đem bán 
lại cho nhà giàu, cho các “đại gia” với giá đắt ngút trời. Còn 
hàng trăm, hàng nghìn gia đình nông dân mất ruộng, hết kế sinh nhai, ôm 
một cục tiền “đền bù”, mà cũng không biết sử dụng thế nào cho có lợi, 
hơn nữa đồng tiền lại mất giá, nên tiêu dần, cuối cùng rồi cũng hết. Hết
 tiền,  sống dở chết dở, đói rét phải đi lang thang, phiêu bạt hay chạy 
vào các đô thị kiếm sống. Nỗi oan của người dân từ đó mà ra. Lúc đầu, bà
 con "dân oan” thấy rõ những bất công, những hà lạm, tham nhũng
 của bọn cầm quyền địa phương nên họ tranh đấu bằng hình thức khiếu 
kiện. Họ chỉ tưởng nỗi oan khiên của họ là do bọn quan lại địa phương 
gây ra (điều này đúng, nhưng chỉ là phần hiển lộ thôi), họ có biết đâu 
rằng căn nguyên sâu xa nỗi oan khuất của họ là ở cái chính sách của ĐCS 
tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, là ở sự lừa đảo và phản 
bội của ĐCS đối với nông dân! Nỗi đắng cay, tủi nhục, khổ ải của bà con “dân oan”
 đi khiếu kiện thật là to lớn khôn cùng, không có bút mực nào diễn tả 
hết được – họ đi từ làng quê đến các cơ quan cấp tỉnh, không được giải 
quyết, họ lại đến các cấp cao hơn, không được nữa thì họ lại đến thủ đô,
 ăn chực nằm chờ ở các dinh thự của các “ông lớn” của ĐCS, các 
cơ quan chính phủ, quốc hội, thậm chí đến cả Mặt trận Tổ quốc dù cái tổ 
chức này chẳng có thẩm quyền giải quyết oan ức của họ. 
Hồi năm 2007, chúng tôi đã viết bài “Chuyện dài dân oan”, nay chỉ xin nhắc lại vài điểm thôi. Mọi người đều biết, đã hơn 30 năm nay, hàng triệu “dân oan”
 nhẫn nhục đi khiếu nại, đi từ cấp chính quyền này đến cấp chính quyền 
khác, nhưng khắp mọi nơi các cấp chính quyền không giải quyết gì cả. Cấp
 nọ chỉ “chuyền bóng” đến cấp kia, cấp trên lại chuyển về cấp dưới... 
cốt làm cho dân oan mệt mỏi, tốn tiền hao của, rồi nản lòng thối chí. 
Nhưng vì đây là cuộc vật lộn cho sự sống của họ, cho nên họ không thể 
nào “bỏ cuộc”. Trái lại, có khi vì uất hận đã bùng lên thành 
những cuộc đấu tranh quyết liệt, như vụ nông dân đồng bằng sông Cửu Long
 nổi giận kéo lên Sài Gòn hồi năm 1988; dân chúng vùng Thanh Nghệ Tĩnh 
liên tục đấu tranh sôi nổi trong những năm 90; nhân dân vùng Xuân Lộc 
(Đồng Nai) đứng lên hồi năm 1997; nông dân Thọ Đà (Hà Tây), Kim Nổ (Đông
 Anh, ngoại thành Hà Nội) đánh nhau với công an để bảo vệ ruộng đất hồi 
năm 1996 và 1998; 250 nông dân ở nhiều tỉnh đã biểu tình trước Quốc hội 
đang họp ở Hà Nội (20.05.1999) để tố cáo nạn tham nhũng và cường hào ác 
bá hoành hành ở các địa phương; trên 30 người phụ nữ tỉnh Đồng Tháp ra 
tận thủ đô biểu tình trước trụ sở ĐCS căng biểu ngữ với hàng chữ: “Nhân dân thành phố Sa Đéc quá thất vọng. Không có dân chủ”
 (14.04.2000); 74 gia đình, gồm người già và phụ nữ ở khu Chùa Vẽ thành 
phố Hải Phòng lên Hà Nội phản đối các quan chức của đảng cướp đất của 
dân, v.v... 
Nổi bật nhất là những cuộc biểu tình của nông dân Thái Bình (hồi những năm 30 tỉnh này vốn được coi là “cái nôi”
 của ĐCSVN) đã diễn ra hồi cuối năm 1996, rồi biến thành những cuộc nổi 
dậy từ tháng 05 đến tháng 06.1997, lúc đầu thu hút hàng ngàn nông dân ở 
xã An Ninh huyện Quỳnh Phụ (đêm 26 rạng 27.06.1997), sau đó toả ra toàn 
huyện Quỳnh Phụ, lan khắp 5 huyện, là Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Đông
 Hưng, Thái Thuỵ (trong số 7 huyện của tỉnh Thái Bình). Từ tháng 05 cho 
đến tháng 11.1997, công an vây chặt khu vực có biến động. Mọi thông tin 
về vụ biến động đều bị ĐCS bịt kín. Sau khi các “ông lớn” từ 
Trung ương ĐCS, trong số đó có TBT Đỗ Mười, đến Thái Bình phủ dụ dân 
chúng, thi hành kỷ  luật một số cán bộ đảng  để lấy lòng dân chúng thì 
cuộc bạo động lắng xuống. Khi đó, Đỗ Mười liền cho công an bí mật bắt bỏ
 tù mà không xét xử những người tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh – phần 
đông là cựu chiến binh của “quân đội nhân dân”, cán bộ cũ đã về hưu của ĐCS. Trong tù, những người này bị nhốt chung với thường phạm, và công an theo lệnh “trên” đã khuyến khích thường phạm giết hại họ cực kỳ man rợ.
Tiếp sau cuộc vùng dậy của nông dân - dân oan Thái Bình là cuộc nổi 
dậy của người Thượng vùng Tây Nguyên hồi tháng 02.2001. Sau đó, đến ngày
 10.04.2004, hàng vạn dân Thượng lại nổi dậy, lần này có quy mô và tổ 
chức hơn lần trước. Nguyên nhân các cuộc nổi dậy là do chính sách của 
ĐCS di dân người miền đồng bằng lên Tây Nguyên, rồi cán bộ, đảng viên 
người Kinh cùng bà con của họ đã lấn chiếm, cướp đoạt nương rẫy của 
người Thượng, mặt khác cũng do chính quyền ngăn cấm tự do tín ngưỡng của
 người Thượng. Một lần nữa ĐCS lại tung quân đàn áp dã man cuộc nổi dậy 
này làm hàng chục (có tin hàng trăm) người chết. Trong hai lần nổi dậy, 
vì bị đàn áp khốc liệt nên đã có hàng nghìn người Thượng chạy sang Cam 
Bốt.
Từ sau những cuộc nổi dậy ở Thái Bình và Tây Nguyên, "dân oan"
 thường dùng hình thức khiếu kiện và biểu tình một cách hoà bình. Để có 
được tiếng vang lớn, họ thường tập trung đông người hơn, dài ngày hơn ở 
các đô thị lớn, nhất là thủ đô. Vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Trụ sở tiếp 
dân ở Cầu Giấy Hà Nội cũng như Trụ sở tiếp dân ở đường Võ Thị Sáu, Văn 
phòng 2 Quốc hội ở Sài Gòn thường là những nơi tụ tập của dân oan đến từ
 nhiều tỉnh thành trong cả nước. 
Đặc biệt là cuộc biểu tình khiếu kiện dài ngày ở Sài Gòn của “dân oan”,
 chủ yếu là nông dân ở 19 tỉnh thành Tiền Giang, An Giang, Kiên Giang, 
Bình Dương, Bình Phước, Mỹ Tho, Bến Tre, Long An, Cần Thơ, Đồng Tháp, Bà
 Rịa, Vũng Tàu, Bình Định, Bình Thuận... và 9 quận huyện ở Sài Gòn – một
 cuộc biểu tình sáu-bảy trăm người, có khi lên đến 1000 người và kéo dài
 27 ngày (kể từ ngày 22.06 đến đêm 18 rạng 19.07.2007). Đây là một cuộc 
biểu tình hoà bình đông đảo và lâu nhất chưa từng thấy dưới chế độ toàn 
trị của ĐCS. Người biểu tình căng những băng-rôn tố cáo đích danh bọn 
quan lại cộng sản cướp đất, bóc lột và lừa dối "dân oan", như: “Chính
 quyền Tiền Giang dối đảng lừa dân”, “Đả đảo Nguyễn Kim Châu, thanh tra 
chính phủ báo cáo không trung thực với Thủ tướng”, “Đả đảo bà Nhàn, 
thanh tra Tiền Giang áp dụng luật rừng với bà con. Đề nghị cách chức”, 
“Mười hộ dân Đồng Tháp tố cáo chủ tịch tỉnh Trương Ngọc Hân và chủ tịch 
huyện Lai Vung Tạ Văn Hội cướp đất cướp nhà, gây bức xúc lòng dân, làm 
dân chết một người”, “Đả đảo chánh án tòa án tỉnh Tiền Giang lợi dụng 
chức vụ chỉ đạo thẩm phán xử oan, trục lợi cá nhân”, “Tập thể bà con 
nông trường Sông Hậu tố cáo UBND thành phố Cần Thơ bao che nông trường 
Sông Hậu. Giám đốc Trần Ngọc Sương lừa đảo chiếm đoạt đất đai của dân và
 thu không có quyết định của Nhà nước”, “Công ty cổ phần Bạc Liêu cấu 
kết với chính quyền cướp đất giữa ban ngày”, "Tố Cáo Huỳnh Tấn Thành, 
Chủ Tịch UBND tỉnh Bình Thuận tham nhũng", v.v... Những khẩu hiệu 
này cho thấy người nông dân đã thấy rõ cội nguồn những đau khổ của họ là
 các quan lại cộng sản. Khi cả một khối người đông đảo biểu tình công 
khai gần một tháng trời, chịu đựng biết bao thiếu thốn, cơ cực trong 
cảnh màn trời chiếu đất, dầm mưa dãi nắng, thì công an theo lệnh của 
đảng, bao vây, đe doạ, cấm cản đủ điều, gây thêm nhiều khốn khổ cho «dân
 oan». Thế nhưng, họ vẫn kiên trì đấu tranh cho đến ngày ĐCS ra lệnh cho
 công an  đàn áp dã man bằng dùi cui, vòi rồng xịt nước, đèn cao áp, 
bình chữa lửa, roi điện, lựu đạn cay...  để dẹp cuộc biểu tình ở Sài 
Gòn.
Sau đó, ĐCS đã cho cán bộ về các địa phương diễn trò “giải quyết tại 
chỗ” những oan khuất của dân chúng, bồi thường phần nào cho những hộ bị 
mất đất hòng xoa dịu lòng căm phẫn của "dân oan". Nhưng "dân oan" vẫn không hài lòng, họ vẫn thấy thiệt thòi và lại khiếu kiện tiếp. 
Thế là cuộc biểu tình khiếu kiện lại tiếp diễn trong tháng 08.2007, 
cả ở Hà Nội lẫn Sài Gòn. «Dân oan» các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và 
nhiều nơi khác, kể cả một số người từ miền Nam mang theo con cái ra Hà 
Nội đứng biểu tình trước cửa Trụ sở tiếp dân ở số 110 Cầu Giấy. Còn ở 
trong Nam, ngày 25.08, hàng trăm bà con dân oan các tỉnh Bình Thuận, Bến
 Tre, An Giang, Lâm Đồng, Rạch Giá, Tiền Giang, Sóc Trăng... lại kéo về 
Sài Gòn tụ tập trước cổng Trụ sở tiếp dân ở đường Võ Thị Sáu để khiếu 
kiện, đòi đất đai, ruộng vườn, tài sản bị chính quyền cướp đoạt. Sáng 
ngày 29 và 30.08, công an lại dùng vũ lực vây bắt và đưa dân oan về các 
địa phương...
Cứ thế, trên 30 năm trời, “dân oan” đã tranh đấu không ngừng, hết năm này qua năm khác, hàng triệu lá đơn đã "dâng" lên các «ông lớn» và bị "xếp xó". Chẳng những thế, hàng trăm cuộc đấu tranh khác từ Bắc chí Nam của "dân oan" đã bị ĐCS ra lệnh đàn áp với lực lượng hùng hậu gồm các loại công an nổi chìm, “dân phòng”, chó nghiệp vụ, gây thương tích, làm tử vong  "dân oan", như ở Trảng Bom, Đồng Nai (năm 2008), ở Tĩnh Gia, Thanh Hóa (năm 2010) hoặc đã làm cho "dân oan"
 quá uất hận, như kỹ sư Phạm Thành Sơn ở Sơn Trà, Đà Nẵng phải tự thiêu 
trước UBND Thành phố Đà nẵng (năm 2011) và anh Nguyễn Văn Tưởng ở Thăng 
Bình, Quảng Nam phải tự tử (năm 2012). Hàng trăm «dân oan» ở Thái Bình 
(năm 1997), ở Quận 9 Sài Gòn (năm 2008), ở Tây Nguyên (năm 2001, 2004, 
2011), Khoái Châu, Hưng Yên (năm 2008), ở Lục Ngạn, Bắc Giang (năm 
2012), ở Tiên Lãng, Hải Phòng (năm 2012)  đã bị vu khống, ghép tội vô lý
 và tống ngục, có những người bị giết trong tù, như những người lãnh đạo
 cuộc nổi dậy ở Thái Bình. Hàng chục người vì lòng thương xót đồng bào 
bị oan khuất đã giúp cho bà con "dân oan" viết đơn khiếu kiện, 
viết bài kể nỗi khổ của «dân oan» trên báo chí, cũng như nhiều luật sư 
vì lương tâm nghề nghiệp đã đứng ra bênh vực "dân oan" trong các vụ án đã bị vu khống và bỏ tù, như LS Lê Trần Luật, LS Lê Thị Công Nhân, LS Huỳnh Văn Đông, LS Cù Huy Hà Vũ…...
Tiếng sấm Đoàn Văn Vươn
Đùng một cái, ngày 05.01.2012, ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, 
thành phố Hải Phòng xảy ra vụ ông nông dân-kỹ sư Đoàn Văn Vươn và gia 
đình, quá uất ức vì lệnh cưỡng chế vô lý của chính quyền huyện Tiên Lãng
 đã nổ súng (súng hoa cải!) chống lại "cả trăm cảnh sát, công an, bộ
 đội... tham gia cưỡng chế khu đầm 19,3 ha của gia đình ông Vươn" "khiến
 4 cảnh sát và 2 bộ đội bị thương" (những chữ trong ngoặc kép là nguyên văn báo chí trong nước). Sự kiện động trời này làm rung động cả nước! 
Đầu đuôi câu chuyện như sau: Tháng 10 năm 1993, UBND huyện Tiên Lãng 
giao 21 ha đất cho ông Vươn, đến tháng 4 năm 1997, lại giao bổ sung 19,3
 ha đất (thực tế là đầm nước ven biển) để nuôi trồng thủy sản trong thời
 hạn 14 năm tính từ năm 1993. Nhận được đầm nước, ông Vươn và người em 
Đoàn Văn Quý cùng gia đỉnh ra sức khai phá, trước hết là làm đập ngăn 
nước biển tràn vào. Sau bao nhiêu lần bị thất bại, sóng biển vỗ vào phá 
vỡ đập, nhưng cả hai anh em đã nhẫn nại làm đi làm lại nhiều lần, cuối 
cùng thì đập đứng vững, họ bắt đầu làm các công trình để nuôi thủy sản. 
Các hộ láng giềng theo gương ông Vươn cũng đắp đập nuôi tôm cá. Công 
việc dần dần tiến triển tốt hơn, họ bắt đầu có thu nhập để trả dần món 
nợ lớn cho ngân hàng. Đám quan lại ở địa phương thèm thuồng dòm ngó và 
bày mưu tính kế... Thế rồi, vào tháng 4 năm 2008, rồi lại tiếp đến tháng
 4 năm 2009, UBND huyện Tiên Lãng ra hai quyết định thu hồi số đất đã 
cho thuê. Ông Vươn điếng người, nhận thấy quyết định này quá ư vô lý nên
 không chịu thi hành. Thế là UBND huyện Tiên Lãng ra lệnh cưỡng chế, 
ngày 05.01.2012, họ điều động cả trăm cảnh sát, công an, bộ đội... đến 
cưỡng chế khu đầm của gia đình ông Vươn. Anh em ông Vươn đã nổ súng để 
chống cự. Sau vụ đó, chính quyền địa phương đã cho xe ủi san phẳng ngôi 
nhà 2 tầng của ông Vươn cho em trai Đoàn Văn Quý ở nhờ, còn ngôi nhà của
 vợ chồng ông Vươn đang ở - xe ủi không vào được - thì họ ra lệnh dùng 
búa đập phá tan hoang, rồi đốt cháy hết quần áo, đồ đạc trong nhà. Bốn 
người trong gia đình họ Đoàn bị tống giam, chờ ngày xét xử, họ bị buộc 
tội «cố ý giết người». Một số nhà báo trong nước có công tâm đã mạnh dạn
 phanh phui, vạch rõ việc kẻ cầm quyền ở địa phương âm mưu cướp đoạt 
thành quả lao động của hai gia đình anh em họ Đoàn. Vụ án này gây chấn 
động mạnh trong dư luận xã hội, đến nỗi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải 
trực tiếp xem xét và kết luận (ngày 10.02.2012). Sau đó, một vài cán bộ 
địa phương ở cấp huyện, xã đã bị thi hành kỷ luật, trừ cấp thành phố 
được thủ tướng "hoan nghênh việc lãnh đạo thành phố Hải Phòng nghiêm túc kiểm điểm... ", dù vụ việc này không phải là không có bàn tay lông lá của các "quan"
 thành phố đã bật đèn xanh cho phép cấp dưới thực hiện vụ cướp đoạt này,
 còn bây giờ thì họ làm ra vẻ ngây ngô, quanh co, dối trá... để trốn 
trách nhiệm (xem: những lời của giám đốc công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca và 
phó chủ tịch Hải Phòng Đỗ Trung Thoại...). Trong lúc thủ tướng Dũng khen
 lãnh đạo Hải Phòng thì ngày 17.02.2012 tại Câu lạc  bộ Bạch Đằng ngay 
trước mặt bí thư thành ủy Hải Phòng Nguyễn Văn Thành, một cán bộ của 
đảng đã lên micro dõng dạc nói lớn: "Đề nghị Bộ chính trị cách chức bí thư Thành" và mọi người đã hoan hô nhiệt liệt!
Đoàn Văn Vươn đáng lẽ phải được nêu lên làm một tấm gương sáng về 
tính năng nổ, lao động kiên trì và sáng tạo của người nông dân thì cái 
chế độ toàn trị đầy tham nhũng hiện nay lại đẩy ông ta vào vòng lao lý 
vì bọn quan lại cộng sản mưu đồ cướp đoạt thành quả lao động vô cùng 
gian khổ, khó nhọc nhiều năm của ông và gia đình ông. Không một người 
nào yêu chuộng công lý mà không thương xót hai anh em họ Đoàn. Vì thế vụ
 án Đoàn Văn Vươn đánh động lương tâm của rất nhiều người trong và ngoài
 nước. Đặc biệt cảm đông là cụ bà Lê Hiền Đức, 81 tuổi, một đảng viên 
cộng sản lâu năm, công bằng và chính trực, nổi tiếng là người nhiệt tình
 chống tham nhũng và giúp đỡ "dân oan", đã lớn tiếng bênh vực hai anh em họ Đoàn. Bà nhìn sâu vào nội tình ĐCS và đã tuyên bố thẳng thừng: "Chừng
 nào ông Đoàn Văn Vươn và những người thân của ông còn phải nằm trong 
vòng lao lý, còn chưa được bồi hoàn các quyền lợi về vật chất, tinh thần
 đã bị xâm phạm thì chừng đó tôi còn nhìn chính quyền trung ương của 
Việt Nam chỉ như là sự phóng to của chính quyền huyện Tiên Lãng, chính 
quyền thành phố Hải Phòng". Lời nói của cụ làm mọi người rất cảm phục 
Vụ án Đoàn Văn Vươn báo hiệu lòng uất hận của người "dân oan" đã lên gần đến điểm đỉnh, nó có thể bùng nổ bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu.
            Mới đây, vào ngày 11.04.2012, một cuộc biểu tình khoảng 
gần 1000 bà con nông dân đã diễn ra trước trụ sở Văn phòng Thanh tra 
Chính phủ tại quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đa số bà con đền từ Văn Giang (Hưng
 Yên) và Dương Nội (Hà Đông). Ngoài ra có một số người từ miền Nam ra, 
họ ăn chực nằm chờ nhiều tháng nay để khiếu kiện, chủ yếu chỉ vì cưỡng 
chế và đền bù đất đai vô lý. Nông dân  phản đối quyết định cưỡng chế đất
 trái pháp luật của chủ tịch và phó chủ tịch UBND huyện Văn Giang. Ở 
đây, hơn 1800 hộ dân ở ba xã Xuân Quang, Cụng Công và Cửu Cao đang bị 
chính quyền cưỡng chế thu hồi đất để làm dự án khu đô thị-thương mại-du 
lịch Ecopark có diện tích trên 500 ha. Người dân được đền bù 43000 đồng 
một mét vuông, một mức giá mà họ cho là quá bất công chỉ mua được vài mớ
 rau muống. Còn bà con ở Dương Nội bị chính quyền cưỡng chế đất để làm 
dự án khu đô thị Lê Trọng Tấn. Nông dân Văn Giang và Dương Nội đã khởi 
kiện từ nhiều năm trước nhưng chẳng được giải quyết gì. Lòng dân rất 
phẫn uất, thế mà kẻ cầm quyền tuyên bố vẫn sẽ thi hành cưỡng chế ở huyện
 Văn Giang vào ngày 20.04. Còn nông dân thì nói rằng: "đối với chúng tôi mất đất là mất hết nguồn sống, nên chúng tôi sẽ đấu tranh đến cùng và sẵn sàng chiến đấu" và họ đã làm chòi ở đồng ruộng để tổ chức canh phòng. Cảm thấy dường như tinh thần Đoàn Văn Vươn đang thấm nhập vào tâm tư "dân oan", báo hiệu những trận cuồng phong sắp tới... 
Theo tin tức nhận được sáng nay, 24.04.2012, chính quyền đã huy động 
một lực lượng hùng hậu hàng ngàn công an, an ninh (BBC đưa tin là khoảng
 2000-4000) mặc sắc phục và thường phục cùng bọn "đầu gấu" xã hội đen, 
từ 4h30 sáng đã đột nhập vào xã Phụng Công, xã Xuân Quan để chia cắt 
dân, chặn đứng các ngả vào cánh đồng, rồi bắt giữ và đánh đập một số 
người canh phòng trên đồng ruộng. Nông dân ở các nơi khác đổ xô đến yểm 
trợ bà con thì bị tấn công, đánh đập tàn tệ. Dã man nhất là chúng bắt 10
 người, khóa tay, rồi xịt hơi cay vào mặt, đe dọa, sau đó thả ra, nhiều 
người bị ngất xỉu. Ở phía xã Phụng Công, có tiếng nổ liên hồi, người ta 
đoán là tiếng súng AK. Tồi tệ nhất là đám công an ném xuống ao tất cả 
lương thực, bánh mỳ dự trữ của dân.  Tiếng khóc của phụ nữ, trẻ em vang 
khắp cánh đồng. Ở xã Xuân Quan có hai người bị trúng đạn hơi cay, một 
trong hai người đó đạn trúng vào chân, máu me đầm đìa. Cuối cùng những 
người dân tay không đã bị đẩy lùi trước lực lượng  cưỡng chế hùng hậu 
của ĐCS. Trận đàn áp nông dân lần này – theo lời bà con nông dân – chẳng
 khác gì trận chiến đấu chống quân khủng bố. Tiếp theo sau lực lượng 
công an, an ninh là đoàn xe ủi xông vào san ủi ruộng đất của bà con, 
những gia đình không di chuyển kịp các chậu cây cảnh quý giá đắt tiền 
cũng bị tàn phá hết. Thử hỏi hành động tội ác này của ĐCS có khác gì 
hành động của địa chủ cường hào ác bá không? Nhất định người nông dân sẽ
 không quên nỗi uất hận này!
Vụ án xử oan, nhưng không phải đối với "dân oan"
       Một thời gian ngắn trước vụ án Đoàn Văn Vươn, là vụ án nông 
trường Sông Hậu, xử oan bà Trần Ngọc Sương, giám đốc nông trường. Vụ án 
này xử oan người vô tội, chứ về thực chất bà Sương không phải là "dân oan" bị cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa dưới thời "đổi mới". Tuy vậy, cũng xin nói qua vài nét.
       Nông trường Sông Hậu là một đơn vị kinh tế nhà nước được thành
 lập hồi năm 1979 với diện tích lúc đầu là 3450 ha, về sau được mở rộng 
thêm, tổng diện tích lên tới 6924,78 ha. Trong quá trình mở rộng diện 
tích có thể đã có sự chiếm đoạt ruộng đất của nông dân thế nào đó, nên 
trong cuộc biểu tình 27 ngày của "dân oan" hồi năm 2007 ở Sài Gòn, ta thấy có tấm băng-rôn ghi rõ: “Tập
 thể bà con nông trường Sông Hậu tố cáo UBND thành phố Cần Thơ bao che 
nông trường Sông Hậu. Giám đốc Trần Ngọc Sương lừa đảo chiếm đoạt đất 
đai của dân và thu không có quyết định của Nhà nước”. Chúng tôi chỉ nhắc lại điều đó ở đây, chứ không thể có kết luận gì.
       Nằm trên vùng đất trũng, bị nhiễm phèn và bị hoang hoá nhiều 
năm, không có kênh mương thuỷ lợi, nông trường đã đi lên bằng nguồn vốn 
vay ngân hàng: đã cải tạo đồng ruộng, xây dựng công trình thủy lợi, kết 
hợp làm đường giao thông, cơ giới hoá nhiều khâu trong sản xuất, chuyển 
đổi diện tích lúa mùa nổi một vụ trở thành đất trồng lúa 2 vụ, nâng sản 
lượng hàng năm lên trên 60000 tấn lúa và tổ chức nuôi trồng thủy sản 
trên 5000 ha. Nông trường đã xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư máy móc 
thiết bị phát triển công nghiệp chế biến nông sản và đã có nhiều thành 
tích trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Tóm lại, nông trường là 
một đơn vị kinh tế khá nổi bật trong thời "đổi mới" nhờ đó tạo 
được cuộc sống tương đối ổn định cho hơn 2300 hộ nông trường viên. Công 
việc đang tiến triển tốt thì hồi tháng 04.2006, chủ tịch UBND thành phố 
Cần Thơ ra quyết định thanh tra nông trường Sông Hậu. Đúng một năm sau, 
công an thành phố Cần Thơ quyết định khởi tố vụ án hình sự "cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế". Tháng 08.2009, tòa án huyện Cờ Đỏ mở phiên tòa xét xử vụ án "lập quỹ trái phép".
 Tòa tuyên án phạt bà giám đốc Trần Ngọc Sương 8 năm tù, bắt bồi thường 
thiệt hại 4 tỷ đồng. Trên 3400 hộ nông trường viên làm đơn phản đối và 
bà Sương kháng cáo. Tháng 11.2009, TAND thành phố Cần Thơ xử phúc thẩm, 
quyết định y án 8 năm tù đối với bà Sương và buộc phải trả cho nông 
trường 4,3 tỷ đồng. Bà tiếp tục kháng cáo lên tòa án tối cao... Cuối 
cùng, nhờ sự can thiệp của một số cán bộ đảng cao cấp, tháng 01.2012, 
viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã ra quyết định đình chỉ vụ án
 nông trường Sông Hậu. 
        Vụ án này cho thấy ĐCSVN độc quyền nắm cả ba thứ quyền – lập 
pháp, hành pháp, tư pháp, do đó hệ thống tư pháp, kiểm sát, công an, tòa
 án ở các cấp đều bị lệ thuộc hoàn toàn vào hệ thống đảng. Ở nơi nào cán
 bộ lãnh đạo, vì đấu đá nội bộ hoặc tham nhũng mà muốn bỏ tù ai thì cả 
hệ thống tư pháp ở nơi đó đều răm rắp làm theo lệnh đảng, bất chấp công 
lý và nỗi oan khiên của người khác. Bà Sương là Anh hùng lao động được 
nhà nước cộng sản tôn vinh mà còn bị chà đạp như vậy, thì thử hỏi "đám dân oan vô danh tiểu tốt" làm sao đương nổi với bọn quan lại cộng sản tham nhũng nắm toàn bộ quyền lực trong tay? 
Hậu quả của việc xóa bỏ tư hữu ruộng đất
Ở trong một nước, nhất là nước nông nghiệp như nước ta, nơi mà nông 
dân chiếm tuyệt đại đa số (trên 70%), thì điều trước tiên một nhà nước 
thật tâm "vì dân, vì nước", muốn cho "dân giàu nước mạnh" phải làm là khẳng định, xác lập rõ ràng quyền tư hữu ruộng đất của người dân, coi đó là cái quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm,
 có như vậy mới khích lệ người dân vì quyền lợi của họ mà ra sức tăng 
gia sản xuất, nhờ đó mà dân mới giàu, nước mới mạnh được. Nhưng các lãnh
 tụ ĐCS đâu có thật tâm "vì dân, vì nước", nên họ đã tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân để chuyển thành cái gọi là "sở hữu toàn dân"
 về thực chất là quyền sở hữu của ĐCS, như chúng ta đã phân tích trên. 
Việc xóa bỏ đó đã gây ra biết bao tai họa cho người dân, trước hết là 
nông dân, vì đã cắt mất cái cơ sở tạo nên nguồn sống của họ!
Ngoài việc tạo ra hàng triệu "dân oan", tước mất kế sinh 
nhai của họ, đẩy «dân oan» vào cuộc sống bần cùng, bế tắc, việc tước 
đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm
 trọng khác. Bị tước mất quyền làm chủ trên mảnh ruộng đất vốn là của 
mình, nay người nông dân chỉ là người thuê mướn ruộng đất để sử dụng mà 
thôi (ở đây, nông dân trở thành "tá điền" thời xã hội chủ 
nghĩa-phong kiến), thuê mướn có hạn định (20 năm, cây lưu niên thì 50 
năm), nên tâm lý của nông dân đã thay đổi, họ không còn tha thiết gắn bó
 với mảnh ruộng đất mình thuê mướn nữa. Họ coi mảnh ruộng đất của nhà 
nước giao như là một vật dụng được mượn tạm, trước sau gì cũng phải trả 
lại, cho nên họ cố khai thác triệt để theo kiểu vắt kiệt mảnh ruộng đất 
đó để cố kiếm lợi nhanh chóng nhất, chứ không muốn xây dựng cho mình kế 
hoạch lâu dài, họ không muốn đầu tư công sức, tiền của để cải tạo chất 
đất, tăng độ phì nhiêu cho đất để tăng năng suất, tăng thu hoạch cho 
mình, vì họ sợ uổng phí công sức, tiền của mà cuối cùng bản thân mình và
 con cháu chẳng được hưởng gì khi mảnh ruộng đất đó bị thu hồi. Cái tâm 
lý đó ảnh hưởng rất tiêu cực về mặt kinh tế, văn hóa và xã hội của đất 
nước, nhưng các lãnh tụ ĐCS nhắm mắt làm ngơ. Chính vì thế, ngày nay, 
chúng ta thấy có những chuyện ngược đời hết sức đau lòng cho những ai 
biết lo nghĩ đến tiền đồ đất nước, đến hạnh phúc của người dân: ruộng 
đất canh tác ngày càng thu hẹp một cách nhanh chóng trong lúc dân số thì
 tăng mạnh, gây ra nhiều khó khăn cho cuộc sống của người dân. Chính Bộ 
nông nghiệp Việt Nam cũng đã phải xác nhận: từ năm 2001 đến năm 2006, đã
 có 376000 ha ruộng đất trồng lúa đã bị thu hồi, làm hơn một triệu nông 
dân bơ vơ vì mất kế sinh nhai... Thế mà hàng nghìn ha vốn là "bờ xôi ruộng mật" đã bị bỏ hoang hóa! Vì sao vậy? Vì các "quan lớn"
 ham chạy theo món lợi lớn trước mắt – chủ yếu là lợi riêng – đã lập ra 
quá nhiều, nhiều đến mức phí lý, các dự án đô thị cao cấp và siêu sang 
trọng, các khu vui chơi, giải trí, các khu du lịch sinh thái, các sân 
golf… rồi cứ mặc sức thu hồi ruộng đất của người dân. Có rất nhiều dự án
 đô thị hóa, công nghiệp hóa lập nên, chưa được cấp trên chuẩn nhận, hay
 chuẩn nhận mà không có tiền thực hiện... nên ruộng đất của dân đã thu 
hồi rồi cứ để nằm đấy hàng chục năm trời, dần dần trở thành hoang hóa. 
Có ai trước đây có thể tưởng tượng nổi tình trạng này đã và đang xảy ra 
dưới thời "xã hội chủ nghĩa" của ĐCS?  Nhiều nơi nông dân thi 
nhau đào đất bề mặt ruộng – là lớp đất màu mỡ nhất bên trên – để đem bán
 cho người ta làm các bãi cỏ sân golf hay bãi cỏ công viên giải trí, du 
lịch, v.v... Trong lúc đó, đội quân thất nghiệp của nông thôn ngày mỗi 
tăng, - theo báo chí trong nước - trong vài năm tới sẽ lên tới nhiều 
triệu người, họ phải chạy ra các đô thị kiếm sống, bổ sung thêm vào số 
người thất nghiệp ở đô thị vốn đã đông càng đông hơn. 
ĐCS đưa ra khẩu hiệu cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông 
thôn, nhưng lại tước quyền tư hữu ruộng đất của người dân, thì trong 
tương lai nước ta làm sao có được những chủ ruộng đất lớn, những chủ 
trang trại lớn có khả năng làm việc cơ giới hóa, công nghiệp hóa đó? 
Không có những người nông dân hay người trại chủ thật sự làm chủ ruộng 
đất của mình thì cái khẩu hiệu cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa 
nông thôn chỉ là chuyện tào lao vô bổ của kẻ vô công rồi nghề hay những 
tên bịp bợm! 
Tóm lại, suốt mấy chục năm nay, tấn bi kịch của người dân bị tước 
đoạt ruộng đất đã trở thành một nỗi đau nhức nhối của xã hội Việt Nam. 
Biết bao cuộc đấu tranh đã bùng nổ và đã bị ĐCS đàn áp tàn bạo; biết bao
 người, kể cả phụ nữ và trẻ con, đã ngã xuống vì súng đạn của "công an nhân dân" "hết lòng vì đảng"; biết bao người "dân oan" và những người bênh vực cho "dân oan" đã và đang phải ngồi rục xác trong tù!
Không thể để tình trạng này kéo dài mãi được nữa! Các chiến sĩ, các 
tổ chức, các đảng phái đấu tranh cho dân chủ, tự do và nhân quyền trong 
và ngoài nước cần phải đặt ngay việc đòi ĐCSVN trả lại quyền tư hữu ruộng đất cho người dân, trước nhất là nông dân,
 vào chương trình hành động của mình, coi đó là một trong những mục tiêu
 đấu tranh căn bản cần toàn tâm toàn ý nhắm tới. Thiết nghĩ, việc đòi 
sửa lại Luật đất đai là cần thiết, nhưng cái căn bản nhất, trước mắt 
nhất vẫn là phải đòi xóa bỏ điều 17 trong Hiến pháp năm 1992, và Hiến 
pháp phải khẳng định quyền tư hữu ruộng đất của người dân là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
 Việc đòi xóa bỏ điều 17 cũng như điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 phải 
là nội dung chủ yếu trong cuộc đấu tranh của mọi người trong dịp sửa đổi
 Hiến pháp lần này. Nhưng xét cho cùng, chừng nào còn ĐCSVN thì e rằng 
việc xóa bỏ hai điều vừa nói đó sẽ rất khó thực hiện được, cho nên phong
 trào dân chủ nước ta sẽ không dừng lại ở chỗ đấu tranh đòi sửa đổi Hiến
 pháp, mà phải nhắm tới cái đích xa hơn là đấu tranh đòi thay đổi hệ 
thống chính trị, kiến lập chế độ dân chủ đa đảng với ba quyền phân lập 
rõ rệt.
Nếu ĐCS không đủ thông minh để trả lại quyền tư hữu ruộng đất cho 
người dân thì rồi đây sẽ còn có hàng chục, hàng trăm Đoàn Văn Vươn khác 
nữa, sẽ có nhiều cuộc bùng nổ to lớn hơn nữa, và nếu không khéo thì nỗi 
uất hận của người dân bị kìm nén lâu ngày sẽ bùng lên thành ngọn lửa vĩ 
đại thiêu rụi cái chế độ toàn trị của ĐCS. Lúc đó, ngay cả những binh 
lính, sĩ quan của quân đội và công an - vốn xuất thân từ nông dân, từ 
nhân dân – chắc chắn sẽ không còn là "thanh gươm và lá chắn" cho ĐCS nữa mà số đông sẽ đứng lên bảo vệ người dân và quay súng lại chống ĐCS./.
Moskva 24.04.2012
Nguyễn Minh Cần
 
