Đỗ Trường
Những năm đầu của thập niên tám mươi, nghe tin báo tử ai đó, có
lẽ cũng không thấy nghiêm trọng bằng tin bị đuổi việc. Việc làm gắn
liền với sổ gạo, tem phiếu thực phẩm, đôi khi còn là sinh mạng chính trị
của con người. Thế mà đánh đùng một phát, tôi bỏ việc, hỏi sao mẹ tôi
không kinh hãi. Thấy mẹ buồn, nên tôi thi vào trường ngoại ngữ. Học được
mấy tháng, không hiểu sao thấy chán, tôi lại bỏ. Được tin, chú tôi ở
Hải Phòng cho Dũng, con lớn của chú lên Hà Nội, bảo tôi xuống cùng Dũng
làm, và mông má chân máy khâu. Nhìn thấy Dũng quân phục bộ đội chỉnh tề,
tôi ngạc nhiên hỏi:
- Mới nhập ngũ, đã được về phép sao?
Dũng cười cười:
- Em đóng quân ở nhà.
Tưởng Dũng đùa, tôi hỏi lại:
- Nghĩa là như thế nào?
- Bộ đội lúc này đang đói, nhiệm vụ đơn vị em làm kinh tế, nhưng khó
khăn quá. Các bố đành phải mắt nhắm mắt mở cho những thằng có nghề, tự
đi tìm việc làm, hàng tháng mang tiền về cho đơn vị.
Bố tôi mất khi còn rất trẻ, nên ông nội tôi buồn, phát bệnh mất sau
đó không lâu. Từ đó bà tôi xuống Hải Phòng ở với chú. Ngày cải cách
ruộng đất, chú đang ở Nam Định. Nghe tin ông bà, bác Âm tôi bị bắt ở quê
Cát Chử, Trực Ninh, chú trốn ra Hải Phòng. Lúc đó chú đã thi đậu tú
tài, Hải phòng vừa được tiếp quản, nếu như không muốn học tiếp, trong
cái nhộm nhoạm ấy, chú có thể xin được công việc kha khá. Nhưng chú lại
có quan niệm kỳ quặc, thà chết đói chứ không làm việc cho nhà nước. Thế
là chú trở thành ông thợ cắt tóc dạo, rồi làm nghề buôn, mông má chân
bàn máy may. Khi có khá vốn, chú buôn tất tần tật, từ đầu máy may, máy
vắt sổ, đến cả máy dệt.
Gió mùa đông bắc đã về, không có mưa phùn nên tiết trời càng khô
hanh. Gió tuy không lớn, nhưng thỉnh thoảng lại có những cơn xoáy chạy
trên mặt đường, cuốn theo lá, đất cát, bụi mù. Làm cho nhiều người đi xe
đạp, bị cuốn ngã bổ chửng. Thành phố đã về đêm. Các hàng quán, dịch vụ
cũng tấp nập người ra vào. Có lẽ thời gian này, cả nước, chỉ có Hải
Phòng còn một chút sinh khí. Hải phòng có biển, có những con tầu, có
những dịch vụ, và làm ăn cá thể. Hải phòng đã dám khoán sản (chui)cho
người nông dân. Vậy là cả vạn người chết oan, sống tủi trong cải cách
ruộng đất, thêm mấy lần cải tạo công thương, không chứng minh được điều
gì cả, mà nó chỉ là một trò thí nghiệm của ma đưa lối quỉ dẫn đường. Làm
cho tấm thân gầy của Mẹ, gánh thêm những thương đau, sau cuộc chiến
tương tàn. Để rồi hôm nay, nếu như không muốn chết, cả nước phải đổi mới
về cái cũ, về với nền tảng cội nguồn của cha ông.
Nhà chú tôi nằm sâu trong ngõ đài truyền thanh, ngoằn ngoèo, tôi đã
xuống nhiều, nhưng lần nào cũng phải hỏi đường vì lạc. Gọi là nhà, nhưng
trước khi chú thuê, cái thời thằng Tây bóc lột ấy, nó chỉ là nơi chứa
đồ. Sau này sợ nhà nước tịch thu, bà chủ đất bán rẻ như tặng cho chú.
Trước nhà có cái hồ khá rộng, bên kia bờ là khu chợ Cột Đèn, nhưng đã bị
hợp tác xã mượn, để thả bèo, chăn nuôi gia súc. Thấm được cái kiểu mượn
đểu đó, nên bà xúi chú, đóng cọc, đổ đất lấn dần ra ao. Mấy năm sau,
chú có đất xây thêm cái bếp và khoảng sân khá rộng. Về đêm, nơi này cũng
không khác miền quê. Những tối mất điện, cả nhà sinh hoạt ở sân, dưới
ánh trăng hè, rọi xiên qua giàn mướp, đâu đó có tiếng kêu à uôm của ếch,
nhái cũng cảm thấy đỡ nhớ quê, chú bảo thế. Sau này, hợp tác xã giải
thể, hồ của bà cũng mất theo. Thay vào đó những ngôi nhà giống như quân
cờ đã mọc lên.
Vừa vào đến sân, đã nghe thấy tiếng đay nghiến của bà tôi vọng ra:
- Tôi tin tưởng chị (tức thím tôi), nhưng không ngờ chị lại chỉ điểm
cho chúng nó(đội cải cách) đào bới thu đi tất cả. Thà... thà... chị giết
tôi đi còn hơn... Ối! giời đất ơi...
Có lẽ lòng tin đã bị phản bội, làm tổn thương, và cú sốc của cải cách
ruộng đất, dù đã qua mấy chục năm, nhưng vết thương đó dường như không
bao giờ thành sẹo. Nên thỉnh thoảng nó lại nhói đau, làm cho bà tôi phát
điên. Ngày còn sống, bố tôi hay xoa dịu, khi vết thương của bà trở lại:
- Thím ấy cũng chỉ là nạn nhân, lúc đó mới mười bốn, mười lăm tuổi đã
biết gì đâu, bọn người lưu manh, phỉnh lừa thế nào mà chẳng được. Thím
ấy còn nhỏ, sao bà đã cho biết chỗ cất giấu vàng bạc? Lỗi đó cũng do
người lớn chúng ta nữa.
Bà tôi lại thừ mặt ra một lúc, rồi khóc… Rồi lại kể chuyện cải cách, chuyện ngày xưa…
Con thứ nhưng là trai, nên mọi người đều gọi bác là Cả Bưởi. Sau khi
lập gia đình, bác Cả được ông tôi mua cho nhiều ruộng đất, nhà cửa ở
vùng biển Sỹ Lâm, phủ Nghĩa Hưng. Tính bác cả thích rượu chè, tụ tập bạn
bè tổ tôm đánh chắn. Công việc đồng áng, thuê mướn người làm, bác chẳng
bao giờ quan tâm, bàn giao cả cho bác gái. Nhưng đặc biệt bác có cái
tính gia trưởng, trong họ ai cũng nể, sợ bác. Bạn bè bác đủ thành phần,
từ ông phú hộ giầu có, đến mấy ông tá điền, làm thuê nghèo khó. Ông Phạm
Triệu (gọi theo tên con trai cả), người làng bên, nhà nghèo, đông con,
nhưng là bạn tổ tôm của bác. Những ngày giáp hạt, đói kém bác thường cho
ông Triệu vay thóc, gạo. Đến vụ gặt, ông Triệu trả nợ. Bác Cả chỉ lấy
tượng trưng, còn lại bảo ông Triệu mang về. Ông Triệu có cô con gái đầu
Phạm Thị Mai, mười mười bốn, mười lăm, đang tuổi dậy thì, nết na xinh
đẹp. Đã có nhiều nơi đánh tiếng dạm hỏi, nhưng ông Triệu đều từ chối.
Trong một lần cùng rượu chè, bù khú, ông Triệu vỗ vai bác Cả:
- Nhiều nơi, dạm hỏi con Mai, nhưng tôi chưa đồng ý nơi nào. Nếu ông không chê, tôi sẽ cho con Mai về làm dâu nhà ông?
Bác cả gật gù:
- Thằng Đàn, Thằng Phách nhà tôi, tuy xấp xỉ tuổi con Mai,
nhưng còn nghịch ngợm, phá phách lắm, hai thằng này chưa thể lấy vợ
được. Tôi có chú em giáp út, gọi là Sáu Chiêm, hơn con Mai chừng năm,
sáu tuổi, đang học trên Nam Định. Tháng sau về quê, tôi thưa lại với ông
bà cụ, rồi xin con Mai cho chú nó.
- Ấy... tôi đâu dám bằng vai với các cụ trên nhà, mà chắc gì cậu Chiêm đã đồng ý.
- Ông cứ yên tâm, chuyện này để tôi lo.
Không biết bằng cách nào, bác Cả đã thuyết phục được ông bà tôi đồng ý
cưới thím Mai cho chú Chiêm, trong khi chú cương quyết phản đối. Bị ép
quá, nổi khùng chú bảo, cưới cô Mai cho ông bà thì cưới, đó không phải
là vợ chú. Thế rồi mọi việc vẫn diễn ra. Nghe đâu hôm cưới, chú chỉ có
mặt một lúc rồi trở về Nam Định. Sau này, nhân lúc vui vui, có cả chú
thím ở đó, tôi hỏi, sao chú lại phản đối dữ vậy? Chú bảo, lúc đó tao
đang mê cô nữ sinh, em thằng bạn học, còn bà này vắt mũi chưa sạch,
không quen biết, có thằng điên mới đồng ý…. Chú nói một thôi một hồi,
thím tôi chỉ cười lành.
Sau ngày cưới, thím Mai ở lại làng Cát Chử chăm sóc ông bà. Ở làng
lúc này chỉ còn bác Lý Âm, là chị cả của bố tôi nhưng tính tình không
hợp với ông bà. Thím Mai hiền lành, trong sáng, dù còn ít tuổi nhưng
quán xuyến công việc, gia đình rất chu đáo. Nên ông bà dồn cả tình cảm
cho thím….
Đất nước đã thật sự bị chia cắt, dòng người đổ ra Hải Phòng
bằng mọi cách, mọi phương tiện, để di cư vào Nam. Cải cách ruộng đất với
những cuộc đấu tố kinh hoàng, đã diễn ra nhiều nơi. Chú út Tân ở Nam
Định, về quê hối thúc ông bà tôi di cư. Vì tiếc ruộng đất và nhà cửa,
lại tin tưởng ông Phi chủ tịch lâm thời huyện, người được ông bà nuôi
dưỡng trong thời gian bóng tối, nên dứt khoát không đi. Bác Lý Âm còn
cho người nhốt, canh chừng chú Tân, vì không đồng ý cho chú vào trong
đó. Nửa đêm chú phá cửa, trốn thoát ra Hải Phòng lên được tầu há mồm vào
Nam. Có lẽ, chú không ngờ đó là lần gặp mặt cuối cùng với cha mẹ, và
người chị vô cùng yêu thương chú. Sau ba mươi tháng tư, bảy lăm, chú
cũng không thể về thăm quê, thăm bà. Trước lúc mất, bà nhớ và gọi tên
chú, thế nhưng không biết lúc đó, chú còn đang ở nơi rừng rú nào.
So với các xã, huyện khác, đội cải cách về Cát Chử muộn nhất, cũng là
đợt cuối cùng. Chỉ có đội trưởng Đông ở lại ngoài đình, còn mọi người
đều phải xuống ba cùng, tìm rễ, cắm nhành. Đội Đụ, người xứ Nghệ, là dân
công thồ hàng trong kháng chiến. Đã qua bình dân học vụ, nên có khả
năng đọc viết thành thạo. Từng có chân trong ban thanh niên của đội hậu
cần, nên Đụ được phân công tham gia, làm nòng cốt, kích đông thanh,
thiếu niên. Những ngày này, làng Cát Chử uỳnh uỵch tiếng chân người,
tiếng hò hét bắt người của đám dân quân. Tiếng mõ, tiếng loa, tiếng
trống ếch của thiếu niên rộ lên từng hồi, cầm đầu là nữ đồng chí dân
quân tên Phố và đội Đụ. Không rõ bằng cách nào Đụ dụ dỗ Phố từ con nuôi
của bác Lý Âm, người bị qui thành địa chủ, cường hào đợt này trở thành
cốt cán.
Bố mẹ, anh chi em chết đói cả năm Ất Dậu, khi Phố mới chừng chín,
mười tuổi, được sư Phi chùa ngoài nuôi dưỡng. Sau này sư Phi làm chủ
tịch lâm thời huyện, rồi lên công tác mặt trận trên tỉnh, thấy bất tiện,
nên bác Lý Âm nhận làm con nuôi. Từ ngày vào du kích, đội Đụ bảo Phố,
nên đổi tên, dũ sạch bụi bùn của kiếp con nuôi địa chủ, để trở về với
thành phần cơ bản bần cố nông. Nghe sướng quá, Phố bỏ luôn cái tên của
cha mẹ, lấy cái tên Tâm do anh đội Đụ đặt cho. Hôm dẫn đội đến bắt, tịch
thu tài sản của vợ chồng bác Lý Âm, Tâm tuyên bố từ cha mẹ nuôi. Chị
Ngấn, chị Ngần con bác khi đó chưa đầy chục tuổi, đội cho phép ở góc
bếp, chung với một bần cố, vừa được chia. Hàng ngày, hai chị cứ lầm lũi
mót khoai, mót sắn ở ngoài gồ đồng, trong cái xua đuổi, khinh rẻ, miệt
thị của những người xung quanh. Bọn trẻ con trong đội thiếu nhi, đốt
đèn, đánh trống, nhìn thấy các chị, giật hết khoai, ném đất ném cát chửi
rủa. Nhưng cũng có những người thương, lại sợ liên lụy, chỉ dám giả vờ
để sót khoai, cho các chị đi sau nhặt. Có khoai sắn, hai chị nướng,
luộc, rình lúc không có người, lẻn mang vào cho mẹ, ông bà. Bác Âm trai,
sau khi bị bắt, họ đưa đi đâu không rõ. Mọi người tưởng bác đã chết.
Mấy năm sau, thấy bác lò dò về. Mọi người hỏi, bác bảo ở tù, nhưng không
ai nói là tội gì. Có lẽ vì mấy năm làm lý trưởng của bác.
Ông bà tôi là người đầu tiên trong làng bị bắt và tịch thu tài sản.
Ngoài ruộng đất, nhà cửa ở Trực Ninh và thành phố Nam Định, cũng như
vàng bạc đội đã thu được khá nhiều. Nhưng bần cố nông vẫn tố, ông bà tôi
ngoan cố còn cất giấu đâu đó, chưa giao nộp hết. Đụ đã tham gia đội cải
cách nhiều đợt, từ Thanh Hóa ra đến ngoài này, nên có nhiều mánh khóe
trong việc cắm rễ và đấu tố. Bằng chứng, chỉ một thời gian ngắn, chẳng
biết bằng cách nào, Đụ đã xui Tâm dụ dỗ được thím Mai tham gia vào đội
trống ếch của thiếu niên, rong ruổi khắp ngõ xóm, đả đảo địa chủ, cường
hào ác bá. Thím đã tách khỏi ông bà tôi. Sau đó, thím dẫn đội đào tất cả
những nơi chôn giấu vàng, trang sức. Mấy nơi, ông bà tôi gửi từ trước
cũng bị thím chỉ cho đội đến thu. Riêng cụ phó Hoạch bạn của ông tôi, bị
thọt chân, nghèo, làm thợ may dứt khoát phủ nhận việc ông bà tôi gửi
vàng. Cụ còn sa sả chửi lại đội, vì nghe lời đứa con nít. Cụ bị du kích
đánh hộc cả máu mồm, bắt giam, gán cho rất nhiều tội. Từ trong chuồng
lợn, Cụ chửi vọng ra, và bảo, đếch sợ thằng nào, đéo muốn sống ở cái
thời tôm lộn cứt lên đầu này. Nhưng cụ phó không được như ý, cụ không có
quyền được chết, mà phải sống. Sau sửa sai, cụ phó Hoạch, mang toàn bộ
vàng trả lại cho ông bà tôi. Ông tôi biếu một nửa, nhưng cụ dứt khoát từ
chối. Trong đợt tổng kết thắng lợi của cải cách ruộng đất, trên báo Nam
Định, người ta thấy tên của địa chủ Đỗ Văn Điếm, tức Cửu Điếm làng Cát
Chử, Trực Ninh, của cải, ruộng đất nhiều đứng vào hàng thứ ba bị tịch
thu trong toàn tỉnh.
Mấy ngày đầu bị bắt, ông bà tôi vẫn còn hy vọng, sẽ có lúc ông chủ
tịch Phi về cứu. Đúng như thế, trong lúc nước sôi lửa bỏng, chủ tịch Phi
mò về thật. Nhưng ông vừa tới đầu làng, đã bị Tâm phát hiện, báo cho
đội:
- Tên sư Phi trước đây, quan hệ với cả đế quốc Pháp, bọn quốc dân
đảng và được địa chủ Điếm nuôi dưỡng, che chở. Hắn về làng, muốn giải
cứu cho đồng bọn.
Được tin, đội trưởng Đông đích thân dẫn du kích vây bắt. Chủ tịch Phi ngớ người ra bảo:
- Các đồng chí….
Vừa cất tiếng, chủ tịch Phi đã bị Đông dộng một báng súng vào mặt, phọt máu ra đằng mũi.
- Ai đồng chí với mày. Thằng việt gian quốc dân đảng này.
Khám trong người, thấy có giấy tờ chứng nhận cán bộ tỉnh, và cả súng
lục mang nhãn hiệu của đế quốc Mỹ. Đội trưởng Đông hét, trói thật chặt,
bảo:
- Thằng này là nhân vật quan trọng của địch, cài vào hàng ngũ của ta,
leo cao để đánh phá, các đồng chí phải canh chừng, lấy khẩu cung cho
cẩn thận.
Có lẽ, chủ tịch Phi là người bị tra khảo, đấu tố tàn bạo nhất. Chỉ có
mấy ngày, hàng răng cửa của ông bị gẫy sạch, mặt sưng vêu lên, hai mắt
húp lại, nhìn như nửa cái bát úp. Người ông mềm oặt, chi chít những vết
thâm, phù. Hôm mang ra đấu ở sân đình, hai du kích nắm bả vai ông, kéo
rê, như bọn trẻ nghịch kéo một con chó chết trôi sông vậy. Trong cái
đám nhộm nhoạm ấy, có ai đó xuýt xoa, hai chân ngoặt lại thế này, gẫy bố
nó rồi, thế mà không chịu nhận tội, thằng này gan thật. Thế mà không
hiểu bằng cách nào, và lấy đâu ra sức lực, đêm hôm đó ông dùng mảnh sành
tự rạch bụng mình, lôi hết cả ruột ra ngoài. Sáng hôm sau, mắt ông vẫn
còn chừng chừng mở, hai con ngươi bị đẩy ra khỏi hốc như muốn vọt ra
ngoài. Người ta không thể vuốt mắt cho ông, buộc phải xé miếng vải đậy
vào mặt, cuốn chiếu mang ra đồng.
Bà tôi và bác Âm, hôm đấu tố bị tát, vả nhiều nhất vì can tội cãi và
cứng đầu. Nhìn thấy chiếc răng hàm bọc vàng, một bấn cố nhảy xổ lên bóp
miệng bà, thò tay vào móc. Bà tôi lắc lắc đầu, nghiến chặt răng, bà bần
cố kêu rú lên, máu vọt ra. Máu từ miệng bà tôi, máu từ tay bà bần cố
thấm xuống cả sân đình. Say máu, bà bần cố cầm cả cái guốc cứ nhè vào
miệng, vào răng bà tôi mà ghè. Cả hàm răng của bà tung ra, người gập
xuống như thân chuối gẫy. Bà bần cố nhặt chiếc răng vàng chùi chùi vào
áo, rồi giơ lên, cười sằng sặc. Trên nghế chủ tọa, đội Đông, đội Đụ đang
bắt nhịp đồng thanh: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác….Chủ Tịch Hồ Chí
Minh muôn năm, đảng lao động Việt Nam muôn năm….
Bị đánh đau, cổ bác Âm như bị gẫy, rũ xuống. Nữ đồng chí Tâm lấy đầu súng để vào cằm hất ngược mặt lên, hỏi:
- Địa chủ Âm, mày có biết tao không?
- Dạ thưa, bà là Phố, con của con ạ.
Một báng súng thúc vào bụng, đánh hự, mồm hộc ra máu, bác đổ người ra phía sau.
- Ai là con của mày. Tao là Tâm, chứ không còn là Phố nữa. Mày đã biết tội chưa?
- Dạ, tội của con lớn lắm ạ! Lúc bà sắp chết đói, con nhận về nuôi
dưỡng, thương bà như thương cái Ngấn, cái Ngần, còn can tội cho bà đến
trường học nữa.
- Mày nuôi tao để lợi dụng, che đậy sự bóc lột, tội lỗi xấu xa. Cho
tao đi học biết chữ, nhằm mục đích làm sổ sách, và quản lý tài sản cho
mày. Mày còn sống đến hôm nay vì chúng tao muốn để cho mày cơ nhận ra
tội lỗi và hội hối cải, khai ra tài sản, vàng bạc còn chôn giấu. Thế mà
chúng mày vẫn ngoan cố chối quanh...
Lần này, hai, ba báng súng liên tiếp giáng vào bụng, vào ngực, khi
bác vừa lóp ngóp bò dậy. Rồi một bầy người xông lên, kẻ nắm tóc, người
giựt tai, đấm đá, huyên náo làm cho con quạ đen trên nóc đình cũng phải
sợ, bay vọt lên với những tiếng kêu man rợ.
Gần sáng, tỉnh dậy, ông bà tôi nghe tiếng bác Âm đang lạy và tế sống
mình, rồi tiếng xé quần áo, bện thành dây thừng, xoàng xoạc ở bên kia
tường. Bà tôi khóc rống lên, gào người đến cứu, nhưng tiếng kêu ấy không
xé nổi màn đêm đen dầy đặc đó. Ông tôi bảo, đằng nào cũng phải chết, bà
hãy để cho nó đi…
Buổi sáng, ông bà tôi nhìn thấy, người ta kéo tấm thân trần truồng
của bác ra giữa sân, bó bằng một manh chiếu rách. Ông già coi miếu và
nhà đòn, đặt bác lên cái gạc tre, ì ạch kéo đi. Hai chân của bác thò cả
ra ngoài, lê trên mặt đường… Trưa hôm đó, ông tôi ngồi úp mặt vào hai
đầu gối. Tưởng ông đói và ngủ, lúc sau bà lay nhẹ, ông đổ kềnh ra, tay
vẫn còn đang bóp cổ mình, mặt xưng to như cái cơi trầu. Bà vuốt ngực, hà
hơi, một lúc ông tôi sống lại. Bà khóc, lạy, xin ông đừng chết trước.
Đến lúc phải chết, thì cả hai cùng đi.
Đàn chim vội bay đi, để tìm nơi xây tổ mới. Chỉ còn lại mảnh đất, đã
mất đi những linh hồn. Bến sông, trưa đã vắng tiếng gọi đò. Nhịp trống
ếch gọi thu, gọi trăng, nay thình thình nghe như tiếng tiễn đưa vong hồn
về cõi xa. Sau một chập xỉa xói, đấm đạp, ông bà tôi được nghe lời
tuyên án của chủ tọa, thay mặt tòa án nhân dân: Kết án tử hình vợ chồng
địa chủ cường hào Đỗ Văn Điếm (tức Cửu Điếm) làng Cát Chử, huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định. Bản án được lập tức thi hành.
Lại những cánh tay xương xẩu giơ lên, tiếng gào như hoang dại…. Đả vợ chồng địa chủ Đỗ Văn Điếm… Đả đảo……
Mặt ông bà tôi hội đủ các màu, đen đỏ tím vàng, những vệt máu chồng
lên vệt máu, khô cứng dọc ngang mặt, cổ. Môi bà sưng lên như hai múi
bưởi. Những cục máu đen còn đọng trên hai hàm răng cụt. Đầu bà lắc lư,
không còn cảm giác. Chiếc kính của ông chỉ còn một mắt, buộc lủng lẳng
bên tai. Đứng mà lưng ông cứ gập xuống, chiếc áo rách dốc ngược xuống
đầu, lộ ra những vết thương có những con dòi con bọ. Người đã tản ra hai
bên, hai xạ thủ được chọn, súng đã sẵn sàng lên đạn. Người du kích đang
loay hoay dựng thẳng người ông tôi, thấy một người đạp xe, xộc tới, hét
lớn. Hãy dừng án tử hình lại, đây là lệnh của ban cải cách trung ương.
Đội trưởng Đông đã nhận ra Huỳnh, người của ban cải cách. Tòa án nhân
dân buộc phải hủy bản án.
Ông bà tôi được tha, nhưng ngơ ngác vật vờ như hai cái bóng. Đang
đứng trong hàng trống ếch của đội thiếu niên, thím Mai chạy ra đỡ bà
tôi. Nhận ra thím, bà hất tay, lẩm bẩm. Thím quay sang đỡ ông tôi ngồi
bệt xuống. Lúc sau chi Ngấn, chị Ngần đang lởn vởn ở bên ngoài cũng chạy
lại, ôm chặt lấy ông bà. Thím Mai muốn đưa ông bà về góc nhà dưới chỗ
thím được chia, để chăm sóc, nhưng bà không chịu. Ông bà tôi về tạm góc
bếp chỗ chị Ngấn, chị Ngần. Hàng ngày, thím Mai vẫn sang, ông tôi vẫn
tình cảm yêu thương thím, nhưng bà giận ra mặt.
Đội cải cách vẫn còn ở lại, hết đấu tố, rảnh rỗi đâm ra ngứa ngáy.
Đồng chí du kích Tâm vẫn còn sát cánh ngày cũng như đêm với đội Đụ. Có
người bảo đội Đụ đang bồi dưỡng cảm tình đảng cho đồng chí Tâm. Người
khác thì thào, bồi dưỡng cái con khỉ gió, bồi dưỡng bụng thì có. Chẳng
phải mình đội Đụ đâu nhé, tôi nhìn thấy đội Đông không chỉ vật đồng chí
Tâm, còn đè mấy đồng chí nữ khác, tẩm quất nhau ở góc đình nữa kìa.
Thời dân đói, những ông đội cũng phải cạp khoai sắn, chứ có bơ sữa gì
đâu, nên nhìn da xanh bủng của đội Đụ biết ngay là đói kinh niên. Ấy
thế mà không hiểu sức lực ở đâu, bất kể sáng, trưa, chiều, tối, gặp các
đồng chí nữ dân quân, mắt trước mắt sau; đội Đụ vật nghiến ra cầy thật
lực. Khiếp thật! Có lẽ cái tên nó vận vào người đồng chí đội chăng? Nên
sau này có câu ca ngợi các đồng chí đội thế này. “Đội Đông, đội Đụ, đội
Huỳnh, ba đội đồng tình bóp vú đảng Tâm” Nhưng bà tôi lầm rầm bảo, nói
thế oan cho đội Huỳnh, người có học nên đàng hoàng hơn.
Đội Huỳnh là bạn của bố tôi ở Nam Định, bỏ học theo kháng chiến. Đội
Huỳnh về làng làm công việc sửa sai, nên thỉnh thoảng đảo qua chỗ ông
bà. Bà tôi đề nghị đội sửa sai trả cho cái từ đường họ Đỗ, vừa để ở và
có nơi thờ cúng. Đội Huỳnh hứa, nhưng không giải quyết được. Nên đội
Huỳnh đưa ông bà tôi ra chòi nghỉ trưa của thợ gặt ngoài gò đồng, ở tạm.
Sau này, bà khỏe lại, tay bị tay gậy lên Hà Nội. Bà ngoại tôi và cụ Bốn
Đễ (bố của đồng chí trưởng ban cải cách trung ương) dẫn đến văn phòng
quốc hội, họ mới trả lại cho cái từ đường.
Biết tin chú Sáu Chiêm không vào Nam, đang ở Hải Phòng nên ông tôi
bảo thím Mai ra tìm chú. Chú tôi sắp xếp cho thím học nghề, sau đó làm
việc xí nghiệp may của thành phố. Dù rất thương thím, nhưng lại không có
tình yêu, nên chú Sáu Chiêm lại ra ở với bác Cả Bưởi, đã trốn thoát ra
Quảng Yên. Vào dạng cũ người, thuốc lào bắn liên chi hồi điệp, tẩm ngẩm
tầm ngầm, thế mà ra Quảng Yên không lâu, chú Sáu Chiêm đã bắn đổ cô nữ
sinh. Thấy tình yêu rực lửa, sợ lần này chú làm thật, nên bác Cả Bưởi ép
chú về Hải Phòng. Vậy mà nhùng nhằng sáu, bảy năm sau chú mới chịu ở
hẳn với thím.
Nghe tôi kể, một nhà văn tên tuổi, người anh lớn, tuổi thơ cũng phải
trải qua những ngày tháng tang thương này, bảo, cả Miền Bắc lúc đó điên
cuồng như một cái chảo lửa, những cái rùng rợn, phi nhân ấy, tưởng chỉ
có trong tiểu thuyết. Vâng! Đúng như vậy. Cuốn tiểu thuyết này, không
phải viết, chẳng phải đọc mà là một cái chảo lửa, không lúc nào ngừng
rang, cháy trong lòng những người đã từng phải trải qua. Và đây cũng là
một trong rất nhiều câu chuyện trong chảo rang ấy của bà tôi.
Đỗ Trường
Leipzig 25-4-2012
Leipzig 25-4-2012