Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, có một sự im lặng sâu
thẳm. Nhưng trong bóng đêm, tôi đả nghe rõ được tiếng của im lặng. Cái
im lặng của cõi đêm, của một trống rỗng, của một hố thẳm, của một mảnh
đời đang sống đã khép lại. Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn
lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc
lát đã mất hút.
Niềm hy vọng như cạn mòn.
Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi? Và 50
binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Mà Neil Sheenan trong Innocence perdu đã
từng nói: “Cette guerre que nous n’aurons jamais gagné’’ (Trận chiến mà
chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng). Mà nay chúng ta chuẩn bị một cuộc
hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt hy
vọng, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.
Trưa 30-4-1975, ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô
tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Bụng tự nhiên nhói lên từng lời.
Vui chưa thấy, lo thì như ứa tràn. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra
sao? Đó cũng là mối lo của tất cả mọi nguời. Chiến tranh đã chấm dứt.
Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn.
Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng
nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã
xong. Ngoài đường, 8 chiến xa T-54 đã vào thành phố trên đại lộ Thống
Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi từ trong nhà ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có
một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua.
Bộ đội tỏ ra ngơ ngác và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào ngượng ngập.
Mãi vào lúc 16 chiều ngày 30-4-1975, ba vị thuyết khách của ông Dương
Văn Minh, thuộc thành phần thứ ba là luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư
Châu Tâm Luân và Linh Mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhứt ra về.
Các ông là những người được tướng DVM cử làm đại diện vào trại David
chiều ngày 29-4-1975 để thuyết phục những người của Mặt trận với lời yêu
cầu họ đừng đánh phá Sàigòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ
Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng DVM mà thôi.
Quân Bắc Việt đã tiến quân vào TSN nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều
30 tháng tư mới ra về được.
21 năm sau, ngày 28-1-1996, Chân Tín trả lời phỏng vấn đài VNCR đã
nói khác: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái ngu dốt và cái sa lầy của một chế
độ đang trên đà tan rã”. Nay, mới đây nghe tin ông ra tờ báo chui. 82
tuổi đầu tưởng đã tự cho phép mình hưu tranh đấu. Ông vẫn chưa ngưng
nghỉ. Điều gì khiến một nguời đã tạm quay mặt với Chúa để theo Cách
mạng, nay trở thành kẻ đối đầu với chính những điều xác tín của mình?
Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt khô khan của bánh xe nghiến
trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài gòn như oặn mình
dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích
sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy
vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của
Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những đường phố
lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào. Praha, Sài gòn, ngạo nghễ và tủi
nhục.
Những chiến xa trên có cắm cờ của mặt trận Giải Phóng miền Nam như
niềm hy vọng nhỏ nhoi của người Sài gòn. Niềm hy vọng mong manh mà đằng
kia là cuối đuờng.
Những chiếc chiến xa đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho nguời ta
có cảm tưởng đường Tự Do của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của
Paris… Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8-1944 là cả một biển
người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải thoát, chỉ
có tiếng cười và nước mắt hoan lạc.
Nhưng Champs Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài gòn. Đường Tự
Do không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Ở
một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy một nhóm nhỏ người đứng
nhìn chiến xa đi qua. Bên kia đường, có một thanh niên mặc quần tây áo
trắng bỏ ngoài quần, chắp tay đứng nhìn. Không có biển ngưòi mà cũng
không có tiếng vỗ tay reo hò. Và 125 nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó.
Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô
tả trong truyện ngắn Ba lẻ một: chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo,
đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của
những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần
tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhắm hướng Nam truy
kích…
Đài phát thanh Sàigòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn. Tiếng hát một thời. Tiếng hát của một đời người.
Anh cất tiếng hát không phải khúc ca da vàng, nhưng lạc lõng với bài:
Nối Vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái,
một SV tranh đấu.
Dân Sài gòn đã đón tiếp quân Giải Phóng như thế. Một nhúm người người
dân ngơ ngác, 125 nhà báo và TCS với Nối Vòng Tay Lớn. 8 chiến xa có
trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban
đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa Liên Xô từ ngoài Bắc
chạy thẳng vào chứ đâu phải của mặt trận giải phóng miền Nam? Trên chiến
xa có cắm cờ MTGPMN. Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi
nguồn gốc một lịch sử.
Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh
độc lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Người ta không
thấy có một đại diện nào của MTGPMN. Nhiều người chê trách ông Minh hèn
“bán đứng miền Nam”. Nếu ông Minh hèn thì những kẻ chạy vắt giò lên cổ
từ những ngày cuối tháng tư phải gọi bằng tên gì? Kẻ trốn chạy và kẻ ở
lại lãnh thẹo, ai hèn hơn ai? Sài gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ
rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa
bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không
thức thời cúi mình xuống nhặt cái danh chính quyền bị người ta vứt lại
từ đống rác đó.
Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa,
người nói ông Bùi Tín, người nói Chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov,
trong Viet Nam viết: “Ngồi trên một chiến xa vào dinh độc lập, Ông Bùi
Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân
chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông,
ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này.Tôi chờ các ông từ sáng nay
để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi
ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao
quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể
giao một cái mà ông không có.”
Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây:
“Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người
Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng,
vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta”.
Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện. và nó sẽ không bao giờ được thực hiện
Cũng trong tháng 9 năm 1975, các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy còn nhắc nhở mọi người rằng: Ai còn nói ngụy là ngụy…
Hồi mất Điện Biên Phủ, cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh phải mất 56
ngày đêm. Mất Sài gòn nhanh hơn, chỉ có 55 ngày. Ít hơn một ngày. Hồi
ĐBP, chỉ mất một nữa. Lần này mất tất cả.
Phía những người thua trận.
Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại
trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói
cuối cùng.
Thiếu Tá Long, Cảnh sát Quốc Gia đã đến đứng trước tượng TQLC trước
tòa nhà Quốc Hội ở Sàigòn rồi rút súng tự sát. Ông đã nằm chết ngay dưới
chân pho tượng.
Trung sĩ Quân Cảnh Trần Minh, thuộc đại đội một quân cảnh phụ trách
an ninh khu vực Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc 10 giờ 30, sau khi nghe tin đầu
hàng, trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ TTM.
Thêm vào đó là những cái chết của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh
sư đoàn 5 bộ binh. Chuẩn tướng Trần văn Hai, sư đoàn 7 bộ binh. Thiếu
Tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân khu 2. Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh
phó quân đoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4.
Những cái chết anh dũng. Nhưng đã thay đổi được gì và có thể đại diện
cho những vị khác đã bỏ chạy không? Đó là những cái chết bằng ngàn lời
ca, bằng vạn tiếng nói.
Và kẻ chết cuối cùng vẫn là kẻ có lý.
Và tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng.
Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích.
Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết. Những cái chết đó giá trị bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.
Còn số phận những người còn lại?
Tôi ghi lại đây hình ảnh một anh lính VNCH, đi chân đất, hai tay áo
rách, đầu gối rách, chắp tay. Đằng sau anh là một bộ đội mặc đồ đen, cầm
súng lăm lăm và sau chót là đám đông dân làng, khoảng 6, 7 chục người
khoanh tay bất lực với lời ghi chú của nhiếp ảnh viên: *Un avenir qui ne
s!annonce pas vraiment radieux pour ce soldat de Thiệu: pendant combien
d!années sera-t-il rééduqué. (ảnh của Abbas. Gamma). Một tương lai
không mấy sáng sủa cho người lính VNCH này. Người lính này sẽ bị đưa đi
học tập cải tạo trong bao lâu?
Ảnh của Abbas (Magnum Photos)
Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết. Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: *Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả.
Ảnh của Abbas (Magnum Photos)
Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết. Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: *Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả.
Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh
Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng
bờ sông. Có tới mười người dụt dè dơ cánh tay vẫy chào. Nhiệm vụ của
người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài gòn rồi, nhưng làm
sao thay vì chỉ có 10 cánh tay dụt dè dơ lên, phải nhân lên bao nhiêu
triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi.
Vào cái giờ này của ngày chiến thắng. Toàn bộ báo chí đã ngưng xuất
bản. Gần 50 chục báo hằng ngày của Sài gòn sáng nay vắng mặt. Họ đâu cả
rồi? Tất cả liên lạc viễn thông với thế giới bên ngoài cũng bị cắt. Họa
chăng còn lại đại diện của các tòa đại sứ sau đây: Pháp, Bỉ, Nhật, Khâm
sứ tòa thánh, Thụy Sĩ và lãnh sự Ấn độ. Chế độ mới hầu như tạm thời cắt
đứt với thế giới bên ngoài. Cho mãi đến ngày 23 tháng năm, liên lạc với
thế giới bên ngoài mới được nối lại và chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài
vào ngày 24 tháng năm. Chuyến bay này chở một số người ngoại quốc còn
kẹt lại trong thành phố mà phần lớn là người Pháp.
Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này. Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào? Không dễ dàng gì để những người đại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài gòn.
Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới và sẽ không bao giờ tới!
Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này. Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào? Không dễ dàng gì để những người đại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài gòn.
Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới và sẽ không bao giờ tới!
Phía trí thức miền Nam: Mặt trận Giải Phóng, ảo tưởng và ảo ảnh.
Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã để lại một di sản thừa như
một cục bướu ung thư cần nhổ. Đó là MTGPMN. Mặt trận này đối với trí
thức thành phần thứ ba hay đối với sinh viên VN hải ngoại chỉ dẫn đưa họ
đến một kết quả là: những ảo tưởng vĩ đại (grandes illusions) và đối
với toàn thể thế giới là một âm mưu lừa bịp trắng trợn.
Xin nhắc để mọi người cùng nhớ: những trí thức đi theo Mặt trận hồi
đó gồm có các ông luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, phó
chủ tịch HĐCV CPLTCHMNVN, chủ tịch UBTUMTTQVN và vợ là Ngô Thị Phú, ở
Sóc Trăng. Lâm Văn Tết, Phùng Văn Cung, Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên
Giang, vợ nữ sĩ Vân Trang. Nguyễn Văn Chì, Chánh án Phạm Ngọc Thu, dược
sĩ Đỗ Thu, Kỹ sư Cao Văn Bổn, Kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,
chức sắc Cao Đài Nguyễn Văn Ngưỡi, kỹ sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương
Quỳnh Hoa, bà Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ,
Lữ Phương, bà Bùi Thị Nga, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, nhà văn
Thanh Nghị Hoàng Trọng Quỳ và vợ ca sĩ Tâm Vấn. Thêm vào đó gs Lê Văn
Hảo theo vào năm 1968, chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, thêm chủ tịch UBKNHTT.
Trong dịp tờ Quê Mẹ phỏng vấn ông năm, 1999 ở Pháp, ông Hảo giải thích:
dư luận gán cho ông về cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế là không đúng. Thứ
nhất, lúc quân đội CS đánh Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước
tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi, nói là mời họp rồi giữ tôi ở lại luôn,
không về thành phố lần nào. Cùng với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chỉ
có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân đã theo bộ đội về Huế và tôi
được biết Phan và Xuân đã từng ngồi xét xử nhiều người có quan hệ với
chính quyền Sài gòn, trong những phiên xử của cái gọi là Toà Án Nhân
Dân.
Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót.
Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót.
Sau 30 tháng 4, đám trí thức trên vỡ mộng. Họ không có một vị trí nào
trong chính quyền Cộng Sản tương lai và danh xưng MTGPMN cũng không ai
muốn nhắc tới. Chẳng bao lâu sau ngày giải phóng, cờ của Mặt trận bị
cuốn gói, xếp một chỗ.
Có thể bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa là người đầu tiên xin ra khỏi đảng
CS và không tham dự phái đoàn nhân sĩ trí thức miền Nam ra ngoài Bắc. Lý
do chính là hai vợ chồng chính thức phản đối việc thống nhất hai miền
như một thứ bội phản đối với miền Nam. Đơn xin rút tên ra khỏi đảng đã
được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra một điều kiện: Phải 10 năm sau mới được
quyền công bố chính thức rút tên ra khỏi đảng. Sau này, trong bài phỏng
vấn trả lời trên tờ Far Eastern economic review (Feer) ngày 17-10-1996,
Dương Quỳnh Hoa đã trả lời câu hỏi: «Quel est l’évènement le plus
marquant pendant les 50 années passées?» bằng một phán quyết:
«L’effondrement du mur de Berlin qui mit un terme à la ‘grande
illusion’.» (Biến cố nào được coi là nổi bật nhất trong 50 năm đã qua?
Trả lời: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh chấm dứt một thời kỳ cuả ‘ảo tưởng
lớn’).
Và nói như ông Hồ Sĩ Khuê: “Thành viên Mặt trận thực sự chẳng có bao
nhiêu. Nhưng ở Sài Gòn, sao mà ai cũng có vẻ là người của Mặt trận quá.”
Nhưng bên trong, họ chỉ làm bù nhìn. Hình nộm” ngồi chơi xơi nước” như
theo lời tường thuật của kỹ sư Trương Như Tảng. Ông Tảng vốn là một sinh
viên du học bên Pháp, có dịp gặp Hồ Chí Minh, coi HCM như khuôn mặt
lãnh tụ sáng chói nhất để chống lại người Mỹ, và trước mắt, chống lại
chính quyền Ngô Ðình Diệm đã viết: Hồi ký của một Việt cộng (A Viet Cong
Memoir) cho thấy MTGPMN chỉ là một sự dàn dựng, họ được đưa vào bưng để
làm bung xung, đánh lừa cả thế giới. Họ bị bịt mắt, dẫn đi quanh co
trong rừng. Những buổi họp, để giữ bí mật, các thành viên mặt trận đều
bịt mặt, vì thế chẳng biết ai vào với ai. Ai là thật, ai là giả? Ðó là
kinh nghiệm đau xót của một số ít trí thức miền Nam. Trong The Myth of
Libération, Trương Như Tảng tố cáo sự dàn dựng giả dối của chính quyền
Cộng sản Hà Nội: “Trong nhiều năm, họ đã nghe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
long trọng tuyên bố cam kết”, qua lời Tổng bí thư Lê Duẩn, rằng “Miền
Nam cần có chính sách riêng của miền Nam”. Hay như lời Thủ tướng Phạm
Văn Ðồng tuyên bố với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghĩ
ngu xuẩn và tội lỗi là thôn tính miền Nam”.
William Shawcross, trên tờ Washington Post, nhận xét:* “He became the
Viet Cong’s Minister of Justice, but at the end of the war, he fled the
country in disillusionment and despair. He now lives in exile in Paris,
the highest level official to have defected from Viet Nam to the West.
This is his candid, revealing and unforgettable autobiography.” (Tạm
dịch: “Ông trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Việt cộng, nhưng
sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam với tâm
trạng bị vỡ mộng và thất vọng. Nay ông tỵ nạn ở Paris. Ông là một trong
những viên chức cao cấp nhất đã đào thoát ra khỏi Việt Nam sang Tây
Phương. Ðây là cuốn tự truyện đáng nhớ, phơi bày (nhiều chuyện) và thành
thật.”)
Vai trò bù nhìn của MTGPMN cũng được đề cập đến trong hồi ký của Vũ
Thư Hiên. Ông viết: “Trẻ con miền Bắc cũng biết Mặt trận Giải phóng là
do miền Bắc dựng nên”. Người trí thức miền Nam một lần nữa bị lừa gạt.
Riêng Nguyễn Hữu Thọ, sau 1975 được làm phó chủ tịch nước. 1981, phó
chủ tịch quốc hội, 1988, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc… Nhưng cuối cùng thì
ông cũng phải thốt ra một câu như sau: “Dân chủ không thể có bằng sự ban
ơn, mà bằng sự đấu tranh”.
Sau ngày miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, nhiều người trong bọn họ
trước đó mang ảo tưởng sẽ có vai trò, sẽ được dùng, sẽ được lãnh đạo
miền Nam, bị gạt ra bên lề một cách thảm hại, có chức mà không có quyền.
Màn lường gạt, tráo trở này chắc chắn không phải lần đầu mà chắc chắn
cũng không phải lần cuối. Những người trí thức này chỉ quên một điều:
Người Cộng Sản bao giờ cũng ăn thịt trước tiên những đứa con đẻ của
mình.
Niên lịch mới, Sài gòn thời của những tiên tri giả.
Bộ đội chính quy, cán bộ miền Bắc đã đành là có mặt. Nhưng đám 30
tháng tư, bọn cách mạng 30 cơ hội nhố nhăng thì đầy đường, đầy ngõ.
Không biết ở đâu ra mà họ đông thế. Chúng là những tiên tri giả, bán rao
thời cuộc. Gọi theo một thứ ngôn ngữ chuyên dùng hơn thì đó là bọn tiêu
bạc giả, vốn liếng là sự bịp bợm, sự tráo trở và tư cách vô liêm xỉ. Có
thể bọn họ tuần trước, tháng trước, năm trước còn “đả đảo Cộng Sản” nay
thì hoan hô… Bên cạnh đó, có một số trí thức đã có dính dáng, hoạt động
bí mật trong Mặt Trận nay xuất đầu lộ diện. Trong số này, có Giáo sư Lý
Chánh Trung, sau làm đại biểu Quốc hộI, Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối
Diện nay đổi là Đứng Dậy. Đổi tên tờ báo đã khéo, chơi chữ đã khéo.
Nhưng Đứng Dậy có thể hiểu lầm là nổi dậy. Hãy coi chừng. Một số người
khác như Nguyễn Đình Đầu, luôn luôn dấu mặt sau hội trường dật giây và
em rể, giáo sư Trần Đức Quảng, gs Châu Tâm Luân, LM Chân Tín, Trần Bá
Cường v.v.
Và nếu nói như người Pháp: «Il n’y a que le premier pas qui compte»,
có nghĩa chỉ bước đầu tiên mới quan trọng, thì những người trên là những
người đầu tiên ló mặt sau ngày Giải Phóng tìm một vị trí quan trọng?
Ngày 4-5-1975, xung đột với Campuchia.
Nhũng tin tức nóng hổi sau đây nhiều bạn đọc, sau hơn 30 năm, có thể
đây là lần đầu tiên đuợc nghe nói tới. Điều đó không lạ, vì tin tức
thông tin nằm trong mạng lưới tuyên truyền của chế độ CS. Vào ngày
4-5-1975, có nghĩa là chỉ bốn ngày sau khi miền Nam thua trận, quân đội
Khờ me của Pol Pot đã đổ bộ xâm chiếm đảo Phú Quốc. Ngày mồng 8, quân
đội trên bộ của Pol Pot đột nhập vào tỉnh Tây Ninh. Ngày 10, chiếm đảo
Thổ Chu và bắt hơn 500 thường dân. Để trả đũa, bộ đội VN chiếm đảo Poulo
Way, sau đó thì rút lui. Tất cả những biến cố trên xảy ra dân chúng đều
không hay biết vì các báo bị đình bản. Nhưng đài phát thanh cũng không
thông báo cho dân chúng biết.
Nòng súng của bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì đã chuẩn bị cho một
cuộc chiến khác. Hai cuộc chiến trước đây là chiến tranh chống chủ nghĩa
Đế quốc thực dân, vậy thì sẽ gọi tên cuộc chiến sắp tới là gì? Cho đến
nay, có hai cuộc chiến đã xảy ra, một phía Nam và một phía Bắc VN. Vẫn
chưa có một tên gọi thích đáng. Chúng vẫn chưa có một giấy khai sinh hộ
tịch. Phải gọi đó là những cuộc chiến tranh gì? Cũng không ai nhắc tới
nửa lời về lẽ thắng thua của hai cuộc chiến ấy. Mọi chuyện được bung bít
dấu nhẹm như thường lệ. Nói gian dối là cái lệ của người làm chính trị
chẳng khác gì rỉ sét là cái đương nhiên của vỏ tầu biển. Nói gian dối
riết rồi bị lộ, bị chìm chẳng khác gì rỉ sét lâu ngày đục vỡ sàn tầu.
Quân đội Khờ Me Ðỏ mới vào Nam Vang hôm 17 tháng 4, thì ngay ngày hôm
sau đã chuyển quân về hướng biên giới VN. Và như đã trình bày ở trên,
đã chiếm đảo Phú Quốc. Theo ông Phan Hiền thì sau đó, nhiều cuộc thương
thuyết đã diễn ra từ tháng 4-1976, nhưng kết quả không đi tới đâu và hai
bên đã ngưng mọi thương thuyết vào ngày 18-5-1976. Sang đến tháng
4-1977 thì tranh chấp giữa hai bên càng trở nên ác liệt. Các tỉnh biên
giới của VN như Tây Ninh, Hà Tiên phải di tản dân chúng. Tây Ninh thì
một phần dân chúng phải bỏ nhà, Hà Tiên đến ba chục ngàn người phải di
tản đi nơi khác. Phóng biên Roland-Pierre Paringaux đã nhìn thấy hàng
đống thây người bị giết, bị cắt cổ ở các ruộng thuộc tỉnh Hà Tiên.
Francois Nivolon cũng đã nhìn thấy những cảnh chém giết, dốt nhà tàn bạo
như thế ở làng Mỹ Đức, cách biên giới Cam Pu Chia chỉ 4 km. Có gia đình
cả bố mẹ, 4 anh chị em đều bị giết, trừ một người con gái sống sót kể
lại như một nhân chứng. Sau này, Ông Ngô Diên tố cáo có cố vấn Trung
Quốc trong các binh đội quân Khờ me đỏ. Phải chăng, đằng sau Pol Pot là
kẻ thù cố cựu của VN? Thật vậy, do sự xúi dục của Bắc kinh, chính quyền
Căm bốt mới dám gây chiến tranh biên giới với Việt Nam và cắt đứt quan
hệ ngoại giao với ta ngày 31-12-1977.
Ông Trần Văn An, một cán bộ tỉnh, cho biết từ 1975, tại tỉnh Tây
Ninh, tỉnh giáp ranh với Cam bốt, có một 1,090 thường dân bị giết do
quân đội Pol Pot gây ra. 70,000 dân chúng phải dời bỏ ruộng vườn đi nơi
khác. 15,000 mẫu hoa mầu bỏ không canh tác. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là
những con số đưa ra, sự thẩm định độ chính xác cần được dè dặt.
Trong một tài liệu sau này VN thu nhặt được cho thấy Pol Pot coi cuộc
đối đầu giữa Cam bốt và VN là một đối đầu giữa Sống hoặc Chết. Sự thù
ghét của Pol Pốt đã rõ ràng và minh bạch trong cuốn Sách đen ghi nhận:
“Dân tộc Cam Bốt nuôi một mối hận quốc gia đối với Việt Nam, một kẻ hiếu
chiến đi xâm lược, nuốt chửng đất đai của Cam bốt. Người Cam Bốt biết
rõ ràng tính xảo trá, mưu mô quỷ quyệt và giả hình của VN. VN hành động
như một Hitler đối với Cam bốt một cách man rợ và Phát xít. Chúng ta
phải bằng mọi cách giết người VN, một đổi 30.’’
Cũng sau này, trên mặt báo Le Figaro đã cho chạy một hàng tít lớn,
phóng viên Yves-Guy Berges xác nhận: «Hà nội đang tiến hành một cách
khoa học một cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử». Điều này xem ra có
vẻ không đúng sự thật. Le Figaro tỏ ra thiếu ngay thẳng và trung thực.
Hà nội đã không đến mỗi ngu dại như thế, vì họ có cách xử lý khôn ngoan
và khéo léo hơn. Nhưng mặc dù Pol pot gây hấn trước đã mang quân sang
chiếm đóng Phú Quốc, việc VN mang quân sang chiếm đóng Campuchia đã bị
cộng đồng thế giới lên án khiến uy tín ngoại giao của VN bị suy giảm,
nhất là đối với các nước Đông Nam Á. Về phía người Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ
Cyrus Vance nói : “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt Nam về bình thường hoá đã
tan vỡ do cuộc xâm lược Cam pu chia của Việt Nam.”
Ngày 5-5-1975, Thông cáo của tòa Tổng Giám Mục Sài gòn.
Sau tiếng hát của TCS trên đài phát thanh Sàigòn, dấu hiệu thứ hai đón tiếp chính quyền mới là vị đại diện của Thiên Chúa giáo.
Chưa đầy một tuần sau ngày Giải phóng, TGM Nguyễn văn Bình gửi tâm
thư kêu gọi giáo dân phải hòa mình vào nhịp sống mới, nỗ lực đón nhận
trong tinh thần hoà hợp, hòa giải dân tộc. Lá thư có đoạn như sau: ”Một
trang sử mới đã mở ra cho dân tộc VN. Đây là một niềm vui chung của cả
dân tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây cũng chính
là một hồng ân của Thiên Chúa. Hơn mọi lúc, giờ đây người công giáo phải
hoà mình vào nhịp sống của toàn dân, đi sâu vào lòng dân tộc… người
công giáo chúng ta phải phải sẵn sàng thi hành một cách tích cực mọi
nghĩa vụ công dân do Chính phủ cách mạng lâm thời chỉ dẫn.”
Nội trong năm 1975, có cả thảy ba lá thư chung như thế. 12 tháng 6
một lá thứ hai và nhân dịp Hội nghị Hiệp thương thống nhất tổ quốc diễn
ra tại TP Sàigòn, một lá thứ ba mà nội dung nhằm thứ nhất trấn an người
TCG, linh mục, tu sĩ trong toàn địa phận. Thứ hai bảo đảm với chính
quyền CM về sự sẵn sàng hợp tác trong hoàn cảnh mới. Theo tinh thần hiến
chế: Gaudium et Spes. Anh em ơi, hãy vui mừng.
Một vài Kitô giáo trí thức cấp tiến như Nguyễn Ngọc Lan đã dùng thánh
kinh để gọi Ngày Giải Phóng: đó là tin mừng cứu độ đã được gửi đến.
Bảo Hãy đừng sợ thì còn nghe được. Bảo hãy vui mừng thì quả thực không dễ.
Một số khác thì tỏ ra lo ngại về đường lối hòa giải của Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn Bình. Sài gòn có khoảng 600 linh mục, trong đó có hơn 100 vị
đã du học nước ngoài và 2,000 tu sĩ phần đông khép mình dưới sự chỉ đạo
của đức cha Bình. Tất cả những cơ sở trường tư thục TCG như đại học,
đại chủng viện như cơ sở dòng Tên, Đồng Công, Chúa Cứu thế, học viện
thánh Piô 10, Đàlạt, các cơ sở thương mại như nhà in Nguyễn Bá Tòng,
trại gà Đà lạt, thương xá Eden, nhà sách, cơ sở nhà in Tân Định đều phải
giao nạp cho chính quyền mới. Theo Georg Evers, Missio 2003, CHLB Đức
trong bài Tình trạng nhân quyền tại CHXHCNVN, tự do tôn giáo, bản dịch
Việt ngữ của Liên Đoàn công giáo Việt Nam tại Đức thì Giáo Hội miền Nam
có 226 trường trung học, 1,030 trường tiểu học. Ngoài ra theo niên giám
2004, vào năm 1962-1963, giáo hội TCG miền Nam có có 58 cô nhi viện nuôi
hơn 6,000 trẻ em, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong và 159
phòng phát thuốc phát thuốc cho khoảng gần 2 triệu lượt người. Tất cả
đều bị trưng thâu, nộp cho nhà nước.
Sự chọn lựa của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã hẳn không phải dễ.
Một tháng trước ngày qua đời, phóng viên Hải Nam, tức Trương Bá Cần, báo
CGVDT đã phỏng vấn cụ trong 20 năm “sống phúc âm giữa lòng Dân tộc”, cụ
là người đứng đầu CGVN, xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ trong 20 năm
qua sống dưới chế độ VNDCCH, cụ còn thấy sợ không. Trả lởi “vẫn còn sợ”
và cụ nói tiếp: “Đời con người giống như một cuộc leo núi. 50 năm đầu là
thời gian leo núi và những năm còn lại sau này là xuống núi. Khi leo
lên núi thì thời gian kéo dài và khó khăn, còn khi xuống núi thì dễ dàng
và nhanh hơn. Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là
đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người “.
Sau này, tác giả Tuệ Không, trong một bài viết vào 10-5-1995, cho
rằng tất cả bài phỏng vấn trên là ngụy tạo của Uỷ Ban Tôn giáo chính phủ
dựng đứng lên. Toà TGM Sàigòn cũng xác nhận cụ Nguyễn Văn Bình đã quá
suy yếu, kiệt sức để có thể trả lời một bài phỏng vấn như thế. Bài phỏng
vấn từ câu hỏi đến câu trả lời là của ông Trương Bá Cần dàn dựng viết
ra. Ông có đưa tới trình Đức Cha vẫn đang đau yếu, chỉ đọc mấy câu, câu
được, câu mất và yêu cầu đừng đăng. Nhưng ông Trương Bá cần đã viện cớ
là bài đã lên chữ rồi, ở nhà in, để rồi xin cứ đăng.
Theo tôi, có lẽ tâm trạng và lòng mong ước của cụ Giám Mục Bình thể
hiện rõ nhất trong câu trả lời lúc 80 tuổi của báo Iregno Attualita,
đăng lại trên Église d’Asie là: “Lúc này đức cha ước vọng gì nhất. Trả
lời: Sau những biến cố Đông Âu, tôi hy vọng mọi sự sẻ tiến triển tốt
đẹp.”
Phía Phật Giáo, cả hai vị lãnh đạo của hai khối đều không có tiếng
nói. Thượng toạ Thích Tâm Châu chọn lựa ra đi như nhiều người. Thượng
toạ Trí Quang thì tịnh khẩu suốt hơn 30 năm nay. Phật tử như rắn không
đầu. Người cần lên tiếng và đáng nhẽ phải lên tiếng là TT Trí Quang. Còn
ai uy tín hơn ông trong lúc này, người đã từng được nước Mỹ qua phóng
viên James Wilde và Frank Mc Culloch trên tờ Time mệnh danh “politician
from the pagoda” hay “a most extraordinary man” (người phi thường nhất).
Tôi chỉ muốn đổi một vài chữ như sau. Trước 1975, ông là một politician
outside the pagoda và sau 1975, một politician inside the pagoda.
Nhưng ông Diệm, ông Thiệu không còn, Thượng toạ Trí Quang không có
giá nữa. Ông chỉ có thể là *người của thời cuộc* dưới một chế độ kiểu
ông Diệm, ông Thiệu mà thôi. Trong suốt hơn 30 năm quy ẩn và ngồi dịch
rất nhiều kinh sách, ông chỉ làm được một thứ chính trị inside the
pagoda, một điều hữu ích cho chính ông và cho những kẻ thù của ông ở bất
cứ phía nào. Đó là: Ta bảo cho các người hay, ta không bao giờ là người
Cộng Sản như các người nghĩ, nhưng ta là nhà *tu thật* trong chế độ
Cộng Sản. Và TGM Bình thì có thể nói: “Ta bảo cho các người hay, có
người chê ta ba phải. Nhưng trước sau, ta là nhà tu thật dưới thời ông
Diệm, ông Thiệu. Nhưng ta trở thành nhà chính trị bất đắc dĩ dưới thời
Cộng Sản.”
Và có lẽ, tôi thích nhất câu nói để đời sau đây của nhà tu bất đắc dĩ: “Nó giết mình hôm trước, hôm sau nó đem vòng hoa đến phúng điếu mình.”
Có lẽ chính nhờ hiểu cái lẽ quyền biến của câu trên đã giúp ông không phải nhận một vòng hoa phúng điếu.
Sau 1975, chúng ta có chủ nghĩa CS và có thêm chủ nghĩa bất đắc dĩ.
Bất đắc dĩ để Thượng toạ Trí Quang phải quy ẩn trong chùa và bất đắc dĩ,
Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình phải làm chính trị. Kẻ làm chính trị phải
đi tu và kẻ đi tu phải làm chính trị.
Và cả miền Nam đều làm những công việc bất đắc dĩ như thế.
Ngày 6 tháng 5-1975, bộ mặt thứ hai của Sài gòn sau Giải Phóng.
Bộ mặt thứ nhất là những tiên tri giả ở trên, bộ mặt thứ hai là những
người buôn bán giả. Chỉ sau một tuần, cái điểm nỗi bật của một thành
phố chết vừa mới trỗi dậy là sự xuất hiện rất nhiều những người buôn bán
lẻ. Họ ngồi dọc theo các đường, từ đầu phố hay đầu con hẻm. Bán đủ thứ
và mua cũng đủ thứ.
Người buôn bán phần đông là những người chưa bao giờ buôn bán. Đây là
lần đầu họ làm nghề buôn bán bất đắc dĩ. Sự buôn bán này là một bài
toán trắc nghiệm người chủ mới trong thế chờ đợi thời thế, nghe ngóng
động tĩnh.
Nghĩ đến hoàn cảnh bất đắc dĩ của cả miền Nam, xin mượn lời hát của TCS:
Hãy sống dùm tôi
Hãy nói dùm tôi
Hãy thở dùm tôi…
Hãy nói dùm tôi
Hãy thở dùm tôi…
Nhiều người không muốn sống, không muốn thở và đã hẳn không muốn nói nữa.
Nguyễn Văn Lục