. Đinh Tấn Lực
Chuyến này ngó như thử anh Tư chuẩn bị khá kỹ, do bởi chính mình thỉnh cầu hội kiến trước thời hạn hứa hẹn.
Tức là, chịu khó thu
nhận ý kiến của Mát-xcơva, thăm dò thái độ của Tân Đề Li và Gia-các-ta,
quan trọng nhất là ý kiến chỉ đạo sát nút của Bắc Kinh, rồi mới đi Mỹ.
Coi truyền hình nội địa
về vở diễn, lắm người đâm ra ngộ nhận tầm xa rằng đây là chuyến công du
“chiến lược”, ít ra là ở tầm xây dựng lòng tin chiến lược cụ thể và tận
nơi (cho kẻ chủ xướng “tư tưởng thời đại” này), hoặc tệ hơn nữa, là ký
thương ước nhập khẩu vũ khí chiến lược, cho sôi nổi/xôm tụ trong cuộc
chạy đua …nội bộ. Mà, trên thực tế, không kể hai thông dịch viên nuốt
chữ tới phát ách, cũng chẳng ai khác biết chắc là trong buổi họp kín đó,
anh Tư có chuyển tải được điều gì cụ thể về “lòng tin chiến lược” đó
không, hay là chẳng có cơ hội đề cập, một khi chủ nhà xoành xoạch chuyển
sang những chủ đề có sẵn trong nghị trình của họ?
Tới chừng coi truyền hình tư bản, người ta mới té sấp té ngửa ra là chẳng có “chiến lược” gì ráo.
Rốt cục chẳng có vụ mua
bán khí tài gì cả. Mà cái này đoán được. Ngoại trừ lúc lâm vào những
khúc ngoặt lịch sử (cần vẽ lại bản đồ thế giới chẳng hạn), còn thì đời
nào Mỹ chịu bán vũ khí chiến lược cho những đối tác tầm sàn lại đang là
đối tác chiến lược tầm đỉnh của …vua hàng nhái là nước Tàu?
Rốt cục chẳng có việc ký kết một văn kiện nào về quốc phòng hay an ninh khu vực. Tất cả chỉ là loại nước bọt khá dễ bốc hơi.
Rốt cục chẳng có cái
chứng chỉ đối tác chiến lược nào với Mỹ. Chỉ là thứ “đối tác toàn diện”.
Ôi, sao cái từ “toàn diện” nó mang tính ngoại giao nước bọt đậm đặc là
vậy?
Rốt cục cái “phái đoàn
tôn giáo” và “phái đoàn công an” tùy tùng của anh Tư, giữ trọng trách
giải độc nhân quyền, đành phải chịu khó đi mua sắm trong thời gian thất
nghiệp ở Mỹ.
Rốt cục cũng chẳng có
cái bắt tay TPP. Ngài Obama kính mến kia chỉ nhẹ nhàng buông thỏng một
câu “sẽ xem xét”, như một thứ án treo. Lại còn ỡm ờ về lời nhờ cậy của
anh Tư về việc công nhận cái nền “kinh tế thị trường” của VN. Kể cũng
khó, bởi nếu công nhận điều đó tức là tự động cắt bỏ cái đuôi định hướng
thổ tả đang ở tầm kim chỉ nam này nọ, trong khi nó chính là sân chơi
(và két sắt) của lãnh đạo Hà nội. Cho nên chủ nhà đánh vòng, mà buộc
lòng anh Tư vẫn phải cười tươi, còn là tươi nhất trong bộ tứ
Khải/Triết/Dũng/Sang từng qua Mỹ, chiếu theo lời nhận xét không cần dấu
diếm tính “chỉ tang mạ hòe” của bạn Nguyễn Khanh RFA.
Cái ấn tượng còn lại ở những người theo dõi sự kiện “chiến lược” này là gì?
Có lẽ tạm thời …phải đếm số!
*
Một
Là thái độ coi thường
(nói cho có tí vẻ ngoại giao là thái độ đánh giá thấp) của Oa-Sinh-Tơn,
đối với phái đoàn nguyên thủ của Hà Nội. Điều này thì …cả Văn Vĩ hay
Gary Davis cũng đều thấy, và nhiều người bực lắm rồi.
Bởi, một chính khách
mang danh nguyên thủ như anh Tư mà chỉ được cấp đại sứ “welcome”, không
trống kèn quân nhạc, không lính bồng súng chào, không thảm đỏ, không
vòng hoa… Đến lúc khui sâm-banh thì chỉ được cụng ly với cấp ngoại
trưởng, trong một bữa ăn trưa đơn giản tại phòng tiếp tân của Bộ Ngoại
giao, ngày 24-7-2013. Đã không có dạ tiệc ở Nhà Trắng thì chớ, đàng này,
phần dạ tiệc ngay buổi tối hội kiến “thượng đỉnh” 25-7-2013 , do ngài
Obama chủ xị ở Nhà Trắng, là buổi tiệc Iftar để dành riêng cho nghi thức
chay tịnh mùa Ramadan của những người theo đạo Hồi!
Vậy thì còn ra cái thể
thống gì nữa? Thể thống ở đây chẳng phải chỉ là tư thế của anh Tư không
thôi. Bởi vì, ngoài một mớ đảng viên thiểu trí thừa tham của CSVN, thì
có ai coi anh Tư ra gì đâu, nói chi tới tư cách cá nhân hay tư thế đại
diện quốc gia? Mà ngay cả đảng viên cũng vậy, từ trước cả đận anh Tư
không dám nêu thẳng tên đối thủ, mà phải mập mờ X kia X nọ, thì họ đã
coi anh Tư ra cái cóc gì đâu?
Thể thống ở đây chính là
sự niềm nỡ tối thiểu nào đó phải có của một nguyên thủ đối với một
nguyên thủ, kể cả khi kẻ đó tự xưng là nguyên thủ. Mà không có chút nghi
thức ngoại giao niềm nỡ tối thiểu nào kỳ này, tức là, hoặc, tự Mỹ nó
đểu; hoặc, Mỹ cả nể ý kiến của những đại diện Việt kiều đã họp với Nhà
Trắng trước đó mấy ngày, rồi hành xử đúng mực/đúng tầm/đúng người/đúng
việc như vậy; hoặc, “mình phải thế nào thì người ta mới mời mình (kiểu đó) chứ!”.
So với các chuyến trước
thì có vẻ người tiền nhiệm của anh Tư được đón tiếp có phần nào tử tế
hơn, cho dù không ai muốn nhắc chuyện Hà Nội phóng thích LS Lê Quốc Quân
vài ngày trước khi phái đoàn Nguyễn Minh Triết qua Mỹ.
Gì thì gì, những người
từng ưu tư về quốc thể cũng …bớt áy náy. Bởi, một khi Mỹ không đối xử
với anh Tư như một nguyên thủ, tức đại diện quốc gia, thì kể ra, có muốn
cũng khó để quy kết là họ coi thường quốc thể VN. Rõ ràng là họ chỉ coi
thường tư thế tự phong của “đối tác”.
*
Hai
Có nhiều dòng nghĩ khác nhau về món quà anh Tư chuyển đến ngài Obama kính mến nọ.
Có người cho rằng đó là
một thông điệp muộn màng từ cái đầu nô lệ đang vái tứ phương của thời
1946. Thời đó, trong lúc bị bế tắc đàm phán, và quyền lực cai trị bị đe
dọa bởi một cuộc đảo chánh quân sự, tác giả bức thư đã nhiệt liệt khẩn
cầu tổng thống Mỹ: “…Hãy can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ cho nền độc lập của chúng tôi”.
Qua đó, rõ là cái quyền lực cai trị non trẻ vừa cướp được đang nhâng
nhâng nhân danh độc lập. Cũng có nghĩa là đàn anh Liên Xô bấy giờ đang
bận hay bấn chuyện nội bộ gì đó của họ (vào giai đoạn chiến tranh lạnh
tượng hình), nên không chìa tay ra được. Đành quay sang Mỹ, cho dù điều
đó không chứng tỏ rằng tác giả bức thư am tường quan hệ Pháp-Mỹ ngay sau
thế chiến thứ hai.
Sáu mươi bảy năm sau,
việc cầu cạnh lặp lại lần nữa, cũng chỉ vì những chiếc ngai vua tập thể
đã long ngàm rã mộng. Và tác giả thông điệp này cũng không chứng tỏ được
mức am tường về xu hướng dân chủ hóa toàn cầu của một chính quyền vẫn
còn đứng hàng đầu thế giới, cho dù vẫn chỉ đạo hàng ngày cách viết những
bài xã luận cơ bắp trên báo ND và QĐND. Đã không biết cách ngã giá, lại
khư khư không muốn ngã giá.
Lại gặp phải một tay
hùng biện vào hàng nhất nhì nước Mỹ. Lắm người diễu cợt rằng chính anh
Tư giỏi hơn người tiền nhiệm, ở chỗ làm được cái việc phân hóa chính
trường nước Mỹ, cái mà tay tiền nhiệm kia chỉ chém gió. Song, những
người hiểu rõ các mối quan hệ bên trong chính trường Mỹ lại bảo rằng
ngài Obama kính mến kia là một cao thủ lăng ba vi bộ ở câu trả lời: “Hồ Chí Minh thực sự có cảm hứng nhờ Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ, và (nhờ) những lời nói của Thomas Jefferson”.
Tức là, vừa đánh vòng
việc từ chối lời cầu cạnh (tất nhiên có điều kiện mà chưa thỏa); vừa
“tát yêu” rằng bác của mấy chú ăn cắp quen tay (mà chúng tôi cũng chẳng
cần khép tội 258 lợi dụng quyền dân chủ); lại vừa để cho phe hữu bên đó
ồn ào lên tiếng giúp, dù chói tai, nhưng cuối cùng vẫn là hỗ trợ cho
cái lắc đầu.
Lại còn “vặn họng” đối tác là mấy chú cứ ra rã chửi Mỹ, từ thời “chống Mỹ cứu nước”,
qua trận động đất Đông Âu-Liên Xô, tới cả thời 9-11 và chiến tranh
Iraq/A Phú Hãn/Palestine, kéo dài tới những cuộc cách mạng hoa/màu gần
đây… Thế nhưng 67 năm qua, phải thừa nhận là các chú mặt dày vô địch,
khi hết nước thì cũng sẵn sàng quay đầu về cầu cạnh cái “thế lực thù địch” số một thế giới: “Hồ
Chí Minh đã nói ông muốn hợp tác với Hoa Kỳ. Và Chủ tịch Sang bày tỏ
rằng: ngay cả nếu 67 năm đã trôi qua, thì cũng là điều tốt khi chúng ta
còn đang có tiến bộ (tới cái đích hợp tác ấy)”.
Tiếc thay, ông còn cắt nghĩa thêm: “Chúng ta vẫn còn những bất đồng…”.
Thế là trắng tay, mà còn phải cố sức cười tươi cúi nhìn đôi bàn tay trắng, bận về.
*
Ba
Cũng phải thừa nhận
thêm, rằng, tay nào cố vấn cho anh Tư phát ngôn lời cảm ơn TT Obama và
nước Mỹ đã cưu mang và hỗ trợ những người Việt Nam tỵ nạn này để họ
(thành công vẻ vang và) trở thành công dân Mỹ, quả là một thế lực thù
địch đáng gờm từ bên trong.
Hắn phải biết rất rõ
nguồn gốc của những đợt di tản/thuyền nhân… đó là từ đâu mà ra. Hắn phải
biết là những đoàn người tỵ nạn CS đó đã bỏ phiếu bằng chân và bằng cả
sinh mạng để thoát khỏi cái nhà tù nghiệt ngã CHXHCNVN. Hắn phải biết
chính nhà nước khuyến khích cho đảng viên bán bãi lấy vàng rồi bắn
ghe/giết người để cướp thêm vàng (Nguyễn Minh Triết là một trong những
hung thần đó ở khu vực Sông Bé). Hắn biết rõ là chính quyền Mỹ nắm vững
cái ngỏ ngách tham tàn đó của lãnh đạo Hà Nội. Quan trọng nhất là hắn
cũng biết rất rõ anh Tư thiếu thông minh đủ để phát ngôn những lời phản
cảm và phi nhân đó.
Chẳng lẽ ngài Obama kính
mến kia buột miệng hỏi ngược: Thế thì đối với hàng triệu thuyền nhân
không đến được một bến bờ nào thì ngài chủ tịch Tư sẽ cảm ơn ai?
Khổ thân anh Tư lọt bẫy đám đàn em chuyên ngành khủng bố mềm.
Càng khổ thân anh Tư hơn
nữa là ngay vào lúc hăng say với một phát ngôn những tưởng sẽ trở thành
danh ngôn đó, thì một đàn em khủng bố mềm khác lại hùng hổ ném chất
thải vào mặt lãnh đạo đang công du, bằng câu tuyên bố rằng những Việt
kiều ở Mỹ (hội nhập thành công và đóng góp vào nền kinh tế đứng đầu thế
giới của Mỹ, trong đó có nhiều triệu phú) đi biểu tình đòi hỏi lãnh đạo
Hà Nội tôn trọng nhân quyền, là họ: “chỉ vì đồng tiền, chỉ vì mưu cầu cuộc sống, chỉ vì muốn có 1 chút thu nhập thêm…”. Hắn ở cấp thứ trưởng ngoại giao và thuộc hàng tổng lãnh sự VN ở nước lớn chứ không phải hàng cắc ké/cò mồi.
Rõ là giới quan tâm
không tránh khỏi hoang mang: “Âm binh vật Phù thủy” ngay ở bên ngoài
lãnh thổ VN và trước mặt những ân nhân đang khẩn cầu cứu độ kia đó
chăng?
Bởi vậy, khi đọc Bản Tuyên Bố Chung ở đoạn: “Hai vị chủ tịch nhất trí là cần tăng cường quan hệ giáo dục, văn hóa, và người với người giữa Hoa Kỳ và Việt Nam”, người đọc không kềm được cảm giác tức thì/tại chỗ là: Nỗ lực tăng cường giáo dục, văn hóa, giữa người với người này, trước tiên phải được áp dụng tức khắc cho dàn lãnh đạo ở Hà Nội.
*
Bốn
Dàn lãnh đạo ở Hà Nội có chung một đồng điểm rất đặc thù là cực khoái tiết mục lip-dance, tạm dịch là …múa mỏ.
Anh Tư đã để lại Mỹ ít ra là hai bài múa:
Bài thứ nhất là câu tuyên bố đứng bục của anh Tư: “Là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Philippines có toàn quyền theo đuổi vụ kiện như họ muốn”. Nhưng từ
chối bình luận khi được hỏi về khả năng liên kết giữa Việt Nam với
Philippines trong nỗ lực đưa ra trọng tài quốc tế để xét xử các tranh
chấp biển đảovới TQ, dựa trên Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển,
như chính quyền Phi đã khởi động từ đầu năm nay.
Tức là chỉ phán những điều cả thế giới biết rõ, và tắt đài để dấu kín cái hèn tự thân.
Bài thứ nhì là lúc sắp
rời Mỹ, vào sáng ngày 26-7-2013, anh Tư ghé qua trụ sở Liên Hợp Quốc, đã
lên lớp ngài Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon, rằng: “VNmong muốn
LHQ phát huy tốt vai trò to lớn trong việc duy trì hòa bình, ổn định
trên thế giới cũng như trong khu vực, thúc đẩy đối thoại, giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của Hiến
chương LHQ và luật pháp quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển chung của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”.
Lẽ nào ông Ban, trong
trách vụ Tổng thư ký LHQ, lại không biết điều đó? Chẳng phải đó là nội
dung khoản 1/điều 1/chương 1, được ghi rõ ngay những dòng đầu trong
bản Hiến chương Liên Hợp Quốc hay sao?
Vậy thì, nguyên thủ của
một đảng cầm quyền cả nước, đâu phải có chức năng chính là để ba hoa
những điều ai cũng biết hầu đừng ai bảo mình mắc …chứng câm? Hoặc giả,
đây chỉ là trò mèo chơi gác kèo: Tổng Lú đã múa nhuyễn và múa dai ở Cuba
chuyến trước, thì Chủ tịch Tư phải múa bảnh hơn ở Niu-Oóc chuyến này?
Cũng ngay tối 26-7-2013 đó, ở VN, đài VTV1 trân trọng đi tin “Bế giảng lớp Cán Bộ Nguồn”
trước khi loan báo tin tức về sự kiện nổi cộm là anh Tư hội kiến với
ngài Obama quyền lực ăn trùm thế giới. Đâu lý nào VTV1 đánh giá chuyến
đi Mỹ sát cạnh và trung thực đến mức đau đớn ấy?
*
Tạm Gút
Cuộc hội kiến của anh Tư
với chủ nhân Nhà Trắng đương nhiệm chỉ vỏn vẹn 45 phút, được linh động
phụ trội thêm 30 phút, chỉ đi đến những điều não lòng cho người cầu
cạnh. Túm lại thì đó là hình ảnh của một anh chàng ôm vuột chân đối tác,
chỉ còn lại trên người trọn vẹn một vết giày.
Nguyên nhân?
Mỹ chủ trương thúc đẩy
dân chủ hóa mọi nơi chứ không hề muốn bán bảo hiểm cho một nhà nước độc
tài độc đảng chuyên dựa hơi thiên hạ để tiếp tục đày dân hay giết dân
mình.
Trong lúc đó, Ngoại
trưởng tân nhiệm của Mỹ, John Kerry, trong buổi tiếp tân tại Bộ Ngoại
giao, lại dí dỏm so sánh đối chiếu tiểu sử bản thân với “quốc khách”, từ
1966, 1969, 1984… cho tới nay, thông qua những nét tương đồng, tuy thân
mật nhưng không kém phần trịch thượng, như thử hắn mới là đồng vai đối tác với anh Tư.
Điều đó càng được minh
họa rõ nét tại sao Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Sheer, trực thuộc
quyền điều động của Ngoại trưởng John Kerry, phải lãnh “trọng trách” đón
anh Tư tại phi trường và cũng là người giới thiệu hai chủ tịch tại Nhà
trắng.
Còn về lời mời chân
thành của anh Tư, về một chuyến viếng thăm VN của ngài Obama kính mến
nọ, thì nhận lại được một câu trả lời bất định. Ông ấy nhận lời và bảo
rằng sẽ cố thực hiện chuyến viếng thăm vếng đó trước khi rời Nhà Trắng
vào năm 2016.
Ông ấy còn nhấn mạnh thêm đâu đó: “Hoa Kỳ tiếp tục tin tưởng tất cả chúng ta đều phải tôn trọng những vấn đề như tự do phát biểu, tự do tôn giáo, tự do hội họp”.
Phải chăng đó là những điều kiện giản đơn được gói ghém thành một thông điệp có thắt nơ?
28-07-2013 – Kỷ niệm 18 năm CHXHCNVN gia nhập và trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN
Blogger Đinh Tấn Lực