Đỗ Thành Công
Mặc dù ông Trương Tấn Sang được ông Tổng Thống Hoa Kỳ, Barack Obama
tiếp tại Toà Bạch Ốc, nhưng trước đó khi đặt chân đầu tiên lên mãnh đất
Hoa kỳ, người đón ông tại phi trường lại là đương nhiệm đại sứ Mỹ tại
Việt Nam là David Shear. Một cuộc tiếp đón rất lạnh nhạt, lèo tèo không
kèn không trống và không tương xứng với tầm vóc Chủ tịch một quốc gia.
Các hảng tin truyền thông truyền hình hàng đầu như CNN, CBS, ABC cũng
không thấy loan tin, ngoài trừ các hảng tin báo chí.
Về mặt nghi lễ ngoại giao, đây là tín hiệu cho thấy chủ nhà đã đánh
giá vai trò của cái gọi là Chủ tịch “không được bầu” của chế độc đảng,
so với Tổng Thống do dân bầu như thế nào. Trên nguyên tắc, đón ông Chủ
tịch phải là Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, tệ lắm thì là cấp Thứ trưởng chứ
không thể là một nhân viên cấp đại sứ. Cung cách “protocol” đón tiếp
giữa hai quốc gia đã được nhân viên Bộ Ngoại Giao trao đổi trước, nếu
phiá Việt Nam thấy có vấn đề thì họ đã phải từ chối khéo. Rất tiếc, chấp
nhận nghi lễ ngoại giao ở tầm vóc quốc gia như vậy đã cho thấy chuyến
đi của ông Sang là chuyến đi gượng ép, vội vã và không phải do Hoa Kỳ
mời, mà là do phiá Việt Nam khẩn cấp yêu cầu.
Dĩ nhiên về ngoại giao, thì văn phòng Tổng Thống phải thông báo là do
chúng tôi mời. Ở cương vị chủ nhà, phải có lời mời thì khách mới đến
được, cho dù khách mời là khách theo kiểu chịu đấm ăn xôi, mặc dày mày
dạn, bị gậy ăn xin hay năn nỉ để được gặp.
Ông Sang đến Mỹ sau chuyến đi qua Tàu hồi tháng 6. Kết quả của chuyến
đi Trung Quốc được giới chuyên viên nghiên cứu đánh giá là “thần phục”
Thiên Triều. Các điều khoản ký và thoả thuận giửa hai nước hoàn toàn
không đề cập đến các vấn đề khẩn cấp, đang được cả nước quan tâm như
tình trạng mất chủ quyền của Việt Nam, các vụ xung đột ở biển Đông, việc
“tàu lạ” liên tục bắn và “cướp”, đánh phá tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Phương án giải quyết ảnh hưởng của “đường lưỡi bò”, hay những vấn đề nổi
cộm khác thể hiện dã tâm của Trung Quốc lấn biển, dành đảo đã không
được đề cập trong các thoả thuận.
Về nội bộ, tranh giành ảnh hưởng và quyền lực của ông Sang với đồng
chí “X” và vây cánh của ông ấy vẫn còn kèn cựa, chưa ngã ngũ cụ thể. Nếu
nói ông Sang có vây cánh và thực lực trong chánh quyền, thì ngược lại,
đồng chí “X”, đã gần như có ảnh hưởng rất mạnh ở lực lượng công an và
quân đội.
Vì vậy, về nhiều mặt, trong hoàn cảnh “bên trong lộn xộn, bên ngoài
yếu xìu”, ông Sang không đủ uy tín và thế lực để hưá hẹn và giải quyết
được điều gì cụ thể với tình hình chính trị, kinh tế và ngoại giao của
Việt Nam. Nếu có, thì chỉ củng cố thêm một chút uy tín của ông Sang về
mặt nội bộ trong đảng CSVN, vì đã được Tổng Thống Hoa Kỳ tiếp kiến. Về
uy tín đối với quốc tế hay phiá Trung Quốc, ông Sang cũng có thể gửi ra
tín hiệu cho thấy Việt Nam chúng tôi đang là đồng minh, bè bạn của Hoa
Kỳ.
Việt Nam Muốn Gì?
Có nhiều điều Việt Nam cần ở Mỹ mà có thể trong chuyến đi này ông
Sang và Chính trị Bộ muốn có một sự khẳng định và hứa hẹn của Obama.
Việt Nam cần mua vũ khí quân sự hạng nặng của Mỹ, Việt Nam cần trang
thiết bị quân sự tối tân, vũ khí sát thương và các lãnh vực liên hệ quốc
phòng. Dù khấu đầu trước Trung Quốc, lãnh đạo CSVN biết là họ đang ở
thế trên đe dưới buá. Trước nanh vuốt của Trung Quốc ngày đêm lấn biển
dành đảo, lãnh đạo CSVN hiểu rỏ là nếu họ tiếp tục nhịn nhục qua sông,
bán đất nhường đảo để giử vững chế độ độc tài, thì đến lúc phải bán vợ,
đợ con của họ, cũng không thể thỏa mãn tham vọng của quan thầy Trung
Quốc. Cho nên, phải tìm cách dựa lưng Hoa Kỳ để tìm chỗ “an toàn”, nhưng
cũng không dám ra mặt thẳng thừng vì sợ làm mất lòng Trung Quốc.
Việt Nam muốn tham gia vào Khối Thương Mại Thái Bình Dương (Trans-
Pacific Partnership) để thúc đẩy nền kinh tế đang bị suy thoái, có nguy
cơ đổ vỡ vì tham nhũng và hậu quả chạy theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm ngoái, Việt Nam xuất cảng sang Mỹ các mặt hàng chiến lược gồm may
mặc, nông sản phẩm và ngư nghiệp đã lên đến gần 25 tỷ đollars. Nếu được
Mỹ ủng hộ để Việt Nam vào Khối Thương Mại Thái Bình Dương, hàng xuất
khẩu Việt Nam sẽ tăng vọt, được miễn hàng rào quan thuế có thể giúp Việt
Nam rất nhiều trong lãnh vực xuất khẩu, thúc đẩy tạo công ăn việc làm,
ổn định tình hình kinh tế, xã hội, chính trị và giữ được tính cạnh tranh
trên thương trường của Việt Nam với các đối tác kinh tế khác như Trung
Quốc, Thái lan, v.v…
Việt Nam cần Obama hứa hẹn vai trò quân sự Mỹ ở Đông Nam Á, nhất là ở
Biển Đông để cầm chân tham vọng của Trung Quốc. Nói cách khác, Việt Nam
cần Mỹ làm đối tác chiến lược quân sự ở Thái Bình Dương. Sau chuyến đi
Trung Quốc, có thể ngoài những điều ký kết trên giấy, ông Sang và Chính
trị bộ đang bị áp lực của Trung Quốc về mặt chiến lược quốc phòng và chủ
quyền mà không quốc gia nào có thể giải quyết được trừ Mỹ. Vì vậy, việc
ông Sang vội vã đi Mỹ sau chuyến thăm Trung Quốc, việc ông Sang muối
mặt chấp nhận thủ tục nghi lễ ngoại giao, việc Toà Bạch Ốc lên chương
trình đón ông Sang một cách đột ngột ngoài dự đoán, cho thấy chuyến đi
ông Sang không thoát ra khỏi các mối liên hệ trên.
Dĩ nhiên để tránh cho ông Sang bớt bị áp lực với Quốc Hội Hoa Kỳ và
dư luận Cộng Đồng Người Việt, Hà nội đã tạm ngưng xử Luật sư Lê Quốc
Quân. Cho dù thành tích nhân quyền vô cùng tồi tệ, cho dù biết chuyến đi
ông Sang sẽ bị Quốc Hội và Cộng Đồng Người Việt lên án mạnh mẽ, Hà nội
đã không có sự chọn lựa nào khác mà vẫn để ông Sang đi Hoa Thịnh Đốn.
Khi ngưng xử Luật sư Lê Quốc Quân, Hà nội nghĩ có thể tạm thời tránh buá
riều dư luận. Rất tiếc, vụ Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải tuyệt thực lại xảy
ra ngoài dự đoán. Đây là việc mà Hà nội đã không lường được, vì vậy vài
ngày trước khi ông Sang đi Mỹ, tin Điếu Cày tuyệt thực do tù nhân chính
trị Nguyễn Xuân Nghĩa can đảm tiết lộ, đã dấy lên làn sóng phẫn nộ trong
Cộng Đồng Người Việt, tạo cơ hội cho Lập Pháp Hoa Kỳ lật lại hồ sơ nhân
quyền và áp lực mạnh mẽ hơn nữa đối với chính phủ Obama.
Hoa Kỳ Muốn Gì?
Obama đã nhiều lần tuyên bố, muốn đẩy mạnh hợp tác Thương Mại Thái
Bình Dương và tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia. Ngoài lý do
cụ thể là tạo lợi thế đòn bẩy kinh tế để các quốc gia trong khối Thái
Bình Dương hợp tác, phát triển và yễm trợ lẫn nhau trên lãnh vực thương
mại. Khối Thương Mại Thái Bình Dương chính là vũ khí chiến lược của Mỹ
đễ cầm chân Trung Quốc. Khi cố tình tạo ra một khối thương mại và kinh
tế độc lập, tách hẳn các quốc gia trong khối ra khỏi qủy đạo và ảnh
hưởng của Trung Quốc, chính quyền Obama muốn làm giãm bớt nanh vuốt của
Trung Quốc, muốn trực tiếp giúp đở các quốc gia đang trong vòng phát
triển và yễm trợ, để vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Trung Quốc. Nói cách
khác, Khối Thương Mại Thái Bình Dương là một thứ “quyền lực mềm” mà Hoa
Kỳ đang theo đuổi tại Thái Bình Dương bên cạnh các chiến lược quân sự
“quyền lực cứng” khác.
Obama muốn Việt Nam trở thành đối tác chiến lược trên mặt trận biển
Đông để cầm chân ảnh hưởng và tham vọng của Trung Quốc. Vai trò Việt Nam
hiện nay chưa thể trở thành đồng minh như Phi Luật Tân hay Nhật, nhưng
ký kết một số văn kiện để khẳng định vai trò đối tác chiến lược, để hợp
tác chặt chẽ về mặt quân sự là những ý đồ mà Hoa Thịnh Đốn đã không ngần
ngại bày tỏ. Và vì vậy, Hoa Kỳ cũng sẳn lòng để viện trợ vũ khí, quân
dụng, huấn luyện và tập trận chung với Việt Nam ở biển Đông.
Năm ngoái, Đại tá Hải quân William Jordan từng phàn nàn “Mặc dù Hoa
Kỳ và Việt Nam cùng có chung quan điểm chiến lược về tình hình Châu Á –
Thái Bình Dương, trong đó không chấp nhận tham vọng đòi chủ quyền 12 hải
lý của Trung Quốc và cần có một sự quân bình với quyền lực vừa trổi dậy
trong vùng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thể hiện cụ thể, họ muốn gì
trong quan hệ đối tác đồng minh với Hoa Kỳ để đạt được các mục tiêu
trên”.
Như vậy, có thể nói việc thảo luận để dẫn đến ký kết Việt-Mỹ về “Hợp
Tác Toàn Diện” đã từng diễn ra trong một quá trình dài, có lúc gần như
bị gián đoạn vì thái độ “lừng khừng” của Việt Nam, và gần đây, đột nhiên
Việt Nam lại có những động thái cụ thể, vượt rào cản để đến gần với Mỹ.
Phải chăng Khối Thương Mại Thái Bình Dương (TPP) là miếng mồi ngon từ
phía Hoa Kỳ, đủ sức đẩy Hà Nội phải nhập cuộc với Mỹ để cứu vãn nền kinh
tế và chế độ đang trên đà vực thẳm.
Hoa Kỳ cũng muốn Việt Nam bớt đi các hành động đàn áp nhân quyền. Khi
Hà nội gia tăng đàn áp nhân quyền, điều này không có lợi cho chính
quyền Obama, vì bị áp lực nội bộ và phải giái thích các chính sách đối
ngoại để thuyết phục các Dân Biểu, và Nghị Sĩ Mỹ đồng thuận với Obama.
Nói cách khác, Hoa Kỳ, cả Hành pháp và Lập pháp, đều nhất quán ở chiến
lược khai thác vai trò Việt Nam nhằm giãm bớt tham vọng Trung Quốc. Tuy
nhiên, khi giao tiếp với một quốc gia độc tài, toàn trị và có hồ sơ về
nhân quyền vô cùng tồi tệ như Việt Nam. Chính quyền Obama, tức Hành phàp
có thể bị trói tay, trói chân trước một đối tác có thành tích bất hảo.
Cho dù Hoa Kỳ không hài lòng với các hành vi trấn áp bất đồng chính kiến
ở trong nước, nhưng chính quyền Obama cũng không mạnh mẽ áp lực, trừ
trường họp bị Lập Pháp qui trách nhiệm là đang tiếp tay với chế độ toàn
trị, đi ngược lại giá trị “nhân quyền” của nước Mỹ, thì họ mới gượng ép
lên tiếng.
Khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), áp lực
của các định chế kinh tế, các qui luật trong sáng và điều kiện công bằng
trong sân chơi thương mại buộc Việt Nam phải tự thay đổi để thích nghị,
nhờ vậy Việt Nam từng bước lột xác về kinh tế và xã hội, dù chính trị
vẫn còn mang bộ mặt độc đảng, nhưng thú tính thì đã thuần hơn trước
nhiều.
Nếu tham gia vào Khối Thương Mại Thái Bình Dương, sức ép của tính
trong sạch trong quan hệ kinh tế, buộc Việt Nam phải tự cải tổ hơn nữa.
Để trở thành hội viên, Việt Nam phải tôn trọng qui luật lao động, phải
có Công Đoàn độc lập, phải có luật pháp nghiêm minh tránh tệ nạn ăn cắp
bản quyền, làm đồ giả v.v..Tóm lại, qui trình cần thay đổi để sống còn
và hội nhập, buộc CSVN phải tự điều chỉnh các chính sách cai trị để được
chấp nhận vào Cộng Đồng Quốc Tế. Nói cách khác, con thú CSVN, đang từng
bước thuần hoá những vẫn còn bản chất rừng rú của loài thú và rất khó
lòng thay đổi trừ khi có một cuộc cách mạng nhân dân toàn diện.
Và điều này thì không phải là trách nhiệm của Hoa Kỳ, của chính quyền Obama mà là trách nhiệm của nhân dân Việt Nam.
Trung Quốc Muốn Gì?
Trung Quốc không muốn Việt Nam thoát ra khỏi quỉ đạo kinh tế, chính
trị và xã hội của họ. Trung Quốc không muốn thấy Việt Nam là đối tác
quân sự, liên kết và làm đồng minh với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Trung
Quốc không muốn Việt Nam trở thành quốc gia phát triển về kinh tế, độc
lập về chính trị, mạnh về quân sự và từng bước đi vào quĩ đạo Dân chủ
hoá. Trung Quốc có tham vọng “Hán hoá” Việt Nam.
Trung Quốc đã từng ngăn cản Việt Nam vào Tổ chức Thương mại Quốc tế
(WTO). Vì vậy, khi Việt Nam tham gia Khối Thương Mại Thái Bình Dương
(TPP), Trung Quốc cũng sẽ không bằng lòng. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách để
lôi kéo, áp lực và thậm chí có thể phá hoại để Việt Nam không hội đủ
các tiêu chuẩn tham gia.
Sau chuyến đi Trung Quốc của Trương Tấn Sang, Việt Nam đã ký văn kiện
đầu hàng. Điều gì làm Hà Nội đã phải cúi đấu thần phục Trung Quốc,
nhưng lại đồng ý ký kết một số thoả thuận với Hoa Kỳ về chiến lược để
cân bằng ảnh hưởng? Phải chăng cuộc họp hồi tháng 6 vừa qua với Trung
Quốc đã đẩy Hà Nội vào vị trí ngã sang Mỹ để tìm thế ỷ dốc? Phải chăng
sau cuộc họp ở Bắc Kinh, Hà Nội nhận ra tham vọng nguy hiễm của Trung
Quốc, mà chỉ có Mỹ mới có thể bảo vệ được Việt Nam? Vì vậy, một tháng
sau đó, Trương Tấn Sang đã nhận chỉ thị Chính trị bộ đi qua Mỹ cầu viện,
cho dù phải muối mặt như thế nào? Không phải đột nhiên Việt Nam đồng ý
ký chung một văn bản “Hợp Tác Toàn Diện” với Mỹ, để có thể làm Trung
Quốc nổi giận. Tiến trình này đã thảo luận từ trước và có thể sẽ không
bao giờ được ký, trừ trường hợp Việt Nam thấy có lợi, hay có dấu hiệu bị
nguy hiểm, bị đe dọa từ phiá Trung Quốc.
Thực ra, nội dung của “Hợp tác Toàn diện” cũng không có gì ghê gớm
lắm. Nó chỉ lập lại một số thảo luận mà hai bên đã làm việc từ nhiều năm
trước, nhưng vì nhiều lý do thầm kín, Việt Nam đã không dám ký. Điều
quan trọng nhất là phần nói về an ninh quốc phòng thì chỉ nhấn mạnh
chung chung, không có gì cụ thể rỏ ràng. “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và Tổng thống Obama nhất trí tiếp tục Đối thoại chính sách quốc phòng
Việt Nam – Hoa Kỳ và Đối thoại Chính trị – An ninh – Quốc phòng song
phương nhằm đánh giá quan hệ quốc phòng và an ninh và thảo luận về hợp
tác trong tương lai.”
Cũng không loại trừ trường hợp Việt Nam được Trung Quốc cho phép ký
văn bản “Hợp Tác Toàn Diện” với Mỹ , với điều kiện là Việt Nam phải ký
các văn kiện đầu hàng với Trung Quốc trước. Với ảnh hưởng mạnh mẽ của
Trung Quốc trên thượng tầng lãnh đạo của CSVN, không thể có sự kiện
Trung Quốc bị bất ngờ trước hành động Việt Nam đơn phương ký kết “Hợp
Tác Toàn Diện” với Mỹ, chỉ một tháng sau khi gặp Tập Cận Bình. Nói cách
khác, có thể văn bản “Hợp Tác Toàn Diện” đã được Trung Quốc chuẩn y hồi
tháng 6 khi Sang đến Bắc Kinh, đánh đổi lại Việt Nam phải ký văn kiện
đầu hàng với Trung Quốc.
Những Vấn Đề Cốt Lõi
Nhân quyền có thể không làm Obama bận tâm vì ông ấy là một trong
những Tổng Thống Hoa Kỳ kém về mặt này. Các chiến lược của Toà Bạch Ốc
đều do Hội Đồng An Ninh Quốc Gia phác hoạ, đề nghị, và đôi khi quyết
định. Nếu có một ông Tổng Thống quan tâm đến nhân quyền, thì mặt trận
nhân quyền có thêm điều kiện thuận lợi để áp lực. Nếu không, vai trò
Quốc Hội, tức Lập Pháp vẫn là trọng tâm, là mục tiêu để chúng ta vận
động.
Trước ngày Sang đến Mỹ, đã có biết bao tổ chức nhân quyền quốc tế lên
tiếng, có Dân biểu họp báo tố cáo CSVN tại Quốc Hội, có hàng chục Dân
biểu, Nghị sĩ ký tên lên án Hà Nội vi phạm nhân quyền. Thậm chí, 4 Dân
biểu thuộc đảng Dân chủ, đảng của Obama do bà Dân biểu Zoe Lofgren, lãnh
đạo của 38 Dân biểu thuộc Đảng Dân chủ ở California, đã vào tận Bạch
cung để họp với Obama và nhấn mạnh yếu tố nhân quyền phải nêu cụ thể
trong cuộc gặp với Sang.
Cộng Đồng Người Việt đã làm trọn vai trò “vận động” chính giới, và đã
tố cáo trước dư luận thế giới bản chất vi phạm nhân quyền của chế độ
độc tài, toàn trị. Biểu tình ở San Francisco trước lãnh sự quán CSVN có
đồng bào đến từ San Diego, từ Santa Ana, và từ San Jose; biểu tình ngay
trước Toà Bạch Ốc ở Washington DC, có đồng bào đã đến từ nhiều tiểu bang
lân cận, thỉnh nguyện thư với hàng chục ngàn chử ký gửi cho Obama
v.v…Mặt trận vận động chính giới và đấu tranh tố cáo CSVN đã diễn ra vô
cùng hào hứng và sôi nổi. Điều đáng mừng nhất là trong các mặt trận này
tại Hải ngoại cũng như tại Việt Nam, đã có sự tham gia đồng bộ của tuổi
trẻ Việt Nam, sát cánh cùng các thế hệ đàn anh. Đây chính là một điểm
son trong cuộc tranh đấu của dân tộc Việt, để chúng ta yên tâm nhìn về
tương lai cho một Việt Nam Tự Do, Dân chủ và Nhân quyền.
Nhân quyền là cốt lõi để Việt Nam được coi đồng minh chiến lược nếu
muốn có hậu thuẩn của Lập Pháp Mỹ về quân sự, chính trị và kinh tế.
Thượng nghĩ sĩ John McCain từng tuyên bố “Hà nội đang có một danh sách
dài về các vũ khí cần mua của Mỹ”. Tuy nhiên “quan hệ an ninh hai bên sẽ
chịu ảnh hưởng trực tiếp của lãnh vực nhân quyền.”. “ Cần có sự chấp
thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ thì Việt Nam mới mua được vũ khí sát thương –
Có nhiều vũ khí Việt Nam muốn mua và Mỹ cũng muốn chuyển giao cho họ,
nhưng điều này chưa thể xảy ra được, trừ khi chính quyền Việt Nam chứng
tỏ họ tôn trọng nhân quyền”, Nghị sĩ Joe Lieberman của đảng Dân chủ cũng
đã phát biểu như vậy.
Nói cách khác, Hà nội càng nghe theo Bắc Kinh đàn áp nhân quyền, càng
bắt giam nhiều blogger, càng tuyên án nhiều anh chị em bất đồng chính
kiến thì Việt Nam càng tiến gần Bắc Kinh hơn Hoa Thịnh Đốn. Đây là chiến
lược tốt nhất để Bắc Kinh kéo Hà Nội ra khỏi ảnh hưởng của Mỹ. Khi ông
Sang đến Mỹ, Hà nội đã tìm mọi cách xoa dịu “hồ sơ nhân quyền” bằng việc
dời lại vụ án Luật sư Lê Quốc Quân. Nhưng vụ Điếu Cày thì bất ngờ nên
lúng túng. Dù sao, nếu ông Sang có thực quyền, chỉ cần một lệnh của
Chính trị bộ, vụ Điếu Cày tuyệt thực đã giải quyết êm thấm, để ông Sang
khỏi phải trả lời với Obama và dư luận Hoa Kỳ. Vậy thì, thế lực nào muốn
gây khó khăn cho ông Sang? Đồng chí “X” muốn nhân cơ hội vụ Điếu Cày
tuyệt thực để làm hỏng uy tín của Đồng chí Sang? Hay cánh thân Bắc Kinh
trong Chính trị Bộ, đồng chí “Trọng” không muốn Việt Nam vào được Khối
Thương Mại Thái Bình Dương?
Với các chánh quyền Hoa Kỳ, chính sách lưỡng đảng về chiến lược quốc
phòng hầu hết đều giống nhau. Đó là không có kẻ thù lâu dài, không có
bạn vĩnh cữu. Quyền lợi của nước Mỹ là tối ưu. Điều này giống như Đặng
Tiểu Bình từng tuyên bố, “mèo trắng hay đen gì cũng được miễn là bắt
được chuột”. Với Hoa kỳ, “độc tài, quân phiệt hay dân chủ không phải là
điều cần giải quyết. Điều quan tâm là chính quyền này có là đồng minh
với nước Mỹ hay không?” Và làm thế nào để lôi kéo họ làm đồng minh của
Mỹ.
Việt Nam là nhà nước độc tài, chuyện này thuộc nội bộ của Việt Nam,
do nhân dân Việt Nam đơn phương giải quyết. Chính quyền Mỹ giao tiếp với
chính quyền Việt Nam, trong tiến trình liên hệ, cọ xát và đối tác kinh
tế, chính trị, quân sự v.v…, sự thay đổi theo qui trình dân chủ hoá,
thúc đẩy sự tôn trọng các giá trị nhân quyền vì quyền lợi hổ tương, sẽ
diển ra theo phương cách tự diễn biến của qui luật đào thải, không phải
áp lực chủ quan từ Mỹ buộc Hà Nội phải thay đổi.
Chế độ độc tài toàn trị Việt Nam cũng giống như chế độ của các nhà
độc tài Trung Đông. Hoa kỳ đã viện trợ cho các lãnh tụ độc tài này rất
hậu hĩnh vì họ từng là đồng minh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi nhân dân của
Ai Cập, LiBăng, Tusnisia lật đổ các chế độ toàn trị, thì Hoa Kỳ và các
nước Phương Tây đã đứng hẳn về phiá nhân dân, chứ không đứng vế phiá các
nhà độc tài, mà cách đó mấy tháng họ còn mời vào Tòa Nhà Trắng để ký
kết, giao tiếp và viện trợ.
Chính nhân dân Việt Nam, trong và ngoài nước phải đứng vững trên đôi
chân của mình để đấu tranh dành tự do, dân chủ, nhân quyền và toàn vẹn
lãnh thổ cho Việt Nam. Nhân quyền không đến từ đảng Cộng Hoà hay Dân chủ
của Mỹ. Tự do và dân chủ cho Việt Nam, không thể ban phát từ Hoa Thịnh
Đốn mà bằng từ sự hy sinh, khôn khéo và đấu tranh không mệt mõi của con
dân Việt. Cũng vậy, đòi lại sự toàn vẹn lãnh thổ không thể trông chờ
giải quyết từ Đảng CSVN, vì bản chất tay sai và lo sợ mất quyền độc tôn
lãnh đạo đã chứng tỏ tư cách hèn kém, phản bội của đảng CSVN. Ngày nào
độc đảng và toàn trị còn nắm quyền lãnh đạo trên đất nước Việt Nam, ngày
nào Việt Nam còn bị lệ thuộc vào ảnh hưởng của Trung Quốc, ngày đó Việt
Nam vẫn còn bị lẩn quẩn trong vòng chậm tiến, độc tài và yếu kém.
Nhân quyền không phải là yếu tố then chốt để đánh đổ chế độ độc tài
toàn trị, nhưng nhân quyền là yếu điểm của con thú cộng sản. Đánh vào
chổ hiểm, chố yếu tức là nhắm trúng trọng tâm để vừa làm suy yếu chế độ,
vừa từng bước cô lập, áp lực buộc chế độ phải thay đổi hay là bị đánh
đổ bởi chính một cuộc cách mạng nhân dân toàn diện.
Cũng cần ý thức được sức mạnh toàn diện bao gồm tất cả tầng lớp nhân
dân, tôn giáo, thành phần đảng phái, cộng sãn cấp tiến lẫn quốc gia.
Cuộc đấu tranh cho một Việt Nam tương lai không thể bị ôm chặt vào “màu
cờ sắc áo” của đảng tính hay thành phần, để tự mình cô lập và làm yếu
mình trước. Cần ý thức được cuộc đấu tranh cho một Việt Nam tương lai
không phải là “độc quyền” của bất cứ cá nhân nào, đảng phái, tổ chức,
thành phần nào, thì mới tạo được sức mạnh dân tộc đồng thuận.
Cần đẩy quan niệm “kẻ thù của kẻ thù là bạn giai đoạn của ta” lên tầm
chiến lược. Như vậy, lực đấu tranh mới có sức mạnh chính nghĩa, mới tập
hợp được đông đảo khối đông quần chúng, và nhiều thành phần để cùng
nhắm vào mục tiêu chung, mục tiêu của dân tộc. Kinh nghiệm đấu tranh cho
thấy, chính lực lượng phản tỉnh đến từ trong đảng CSVN là những nhân tố
vô cùng hữu hiệu để làm suy yếu họ. Nội thù, có sức mạnh còn vũ bảo hơn
áp lực từ ngoài.
Khi những người lãnh đạo đầu tiên của Hiến Chương 77, bí mật chia
nhau vận động chử ký cho bản Hiến Chương. Cựu Tổng thống Tiệp Khắc, ông
Vaclav Havel là người nhận báo cáo đầu tiên từ tay các cộng sự viên. Ông
đã choáng trước kết quả, vì chính bản do những người cộng sản phản tỉnh
Tiệp vận động, có rất nhiều người Cộng sản phản tỉnh ký tên, còn nhiều
hơn cả bản của các anh chị em văn nghệ sĩ và thanh niên sinh viên.
Nhờ vận dụng được sức mạnh đồng thuận của dân tộc, nhờ khôn khéo, can
đảm gát qua một bên sự khác biệt của “thành phần tính”, cuộc cách mạng
nhung đã thành công, và có dấu ấn rất đậm từ sự đóng góp của những người
Cộng sản “phản tỉnh” Tiệp.
© Đỗ Thành Công
© Đàn Chim Việt