Lý Thái Hùng
Trong hơn 20 năm nối lại quan hệ ngoại giao bình thường từ sau khi
Tổng Thống Bill Clinton bãi bỏ cấm vận đối với nhà cầm quyền CSVN vào
năm 1995, Tòa Bạch Ốc đã đón tất cả 4 nhân vật cao cấp của Hà Nội gồm:
ông Phan Văn Khải trong trách vụ Thủ tướng vào năm 2005, ông Nguyễn Minh
Triết trong trách vụ Chủ tịch nước vào năm 2007, ông Nguyễn Tấn Dũng
trong trách vụ Thủ tướng vào năm 2008, và lần này là ông Trương Tấn Sang
trong trách vụ Chủ tịch nước vào ngày 25 tháng 7 năm 2013.
Mặc dù cả bốn nhân vật nói trên được đánh giá là có quan điểm ôn hòa
và cấp tiến trong những liên hệ với Hoa Kỳ; nhưng vì đa số các nhân vật
trong bộ chính trị CSVN vốn coi Trung Quốc là “đồng minh” quan trọng,
nên mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và CSVN luôn luôn bị coi là thứ yếu trong
suốt 2 thập niên vừa qua.
Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tuy đặt vấn đề nhân quyền là một
điều kiện trong các quan hệ với CSVN; nhưng trong thực tế, Hoa Kỳ không
bao giờ đẩy Hà Nội rơi vào thế kẹt về vấn đề nhân quyền mà đa số là do
sự “dãn ra” từ phía CSVN, đến từ ba lý do:
Thứ nhất là lãnh đạo CSVN không tin chính quyền Hoa Kỳ có thực tâm
tạo quan hệ bình thường mà qua đó sẽ dùng “diễn biến hòa bình” để khuynh
loát làm sụp đổ chế độ vì Hoa Kỳ bị coi là thủ phạm chính trong các
cuộc cách mạng màu từ Đông Âu đến Bắc Phi.
Thứ hai là đa số lãnh đạo CSVN đều coi Trung Quốc là khuôn mẫu và là
chỗ dựa tốt nhất, để họ có thể bảo vệ được những quyền lực đang có từ
sau khi khối Liên Xô tan rã. Đồng thời chính lãnh đạo Bắc Kinh cũng coi
CSVN là một đối tác không thể thiếu để giúp ổn định tình hình phía Nam.
Thứ ba là hầu hết giới lãnh đạo CSVN đã yên vị trong chiếc ghế quyền
lực trải dài gần 4 thập niên nên rất ngại thay đổi những gì không nằm
trong tầm kiểm soát của họ. Họ chỉ muốn tiếp cận với Hoa Kỳ trên mặt
kinh tế nhưng không sẵn sàng học hỏi để tiến đến những hợp tác chiến
lược như lãnh đạo Bắc Kinh.
Những lý do nói trên đã khiến cho CSVN có những bước đi khập khễnh
trong các trao đổi với Hoa Kỳ. Nhiều người cho rằng Hà Nội đã tìm cách
“đu dây” giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn nên mới đi khập khễnh như vậy.
Trong thực tế, CSVN không hề chủ trương đu dây.
Hà Nội làm bộ như đu dây để che đậy một thủ thuật cố hữu là khai thác
tài nguyên của các quốc gia Phương Tây hầu cung phụng cho nền kinh tế
Trung Quốc mà họ đang dựa vào. Tình trạng nhập siêu đối với Trung Quốc,
xuất siêu đối với Hoa Kỳ và Âu Châu ngày một gia tăng từ năm 1991 cho
đến nay, cho ta thấy rõ vì sao CSVN đã coi Trung Quốc là “đối tác chiến
lược toàn diện” trong khi chỉ loay hoay với Hoa Kỳ ở vài cuộc đàm phán,
không hề muốn tiến xa.
Tiếp Cận Hoa Kỳ?
Mới đây vào ngày 31 tháng 5, tại Diễn đàn Đối thoại Shangri-La, Tân
Gia Ba với sự tham dự của đại diện nhiều quốc gia trong khu vực Á Châu
Thái Bình Dương, ông Nguyễn Tấn Dũng đã có một bài phát biểu mà nhiều
nhà bình luận cho rằng Hà Nội đã có một số thay đổi quan điểm về Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu, ông Dũng ám chỉ Trung Quốc “đã có những đòi hỏi
phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và
chính trị cường quyền.” Trong khi đó, ông Dũng đã chính thức đề cao Hoa
Kỳ bên cạnh Trung Quốc là hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn
nhất trong khu vực Á Châu và Thế Giới.
Cũng trong bài phát biểu, ông Dũng nói rằng Hà Nội muốn tạo dựng quan
hệ đối tác chiến lược với 5 cường quốc trong Hội đồng bảo an Liên Hiệp
Quốc là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga. Trong 5 cường quốc này,
CSVN chỉ chưa xúc tiến quan hệ đối tác với Hoa Kỳ và Pháp mà thôi.
Các nhà bình luận cho rằng, phát biểu của ông Dũng phải là chính sách
nhất quán từ Bộ chính trị nên được diễn dịch rằng CSVN đang muốn tạo
hình ảnh “đứng thẳng người đối với Bắc Kinh” để tiến gần hơn với Hoa Kỳ
và Phương Tây.
Vấn đề đặt ra là ông Nguyễn Tấn Dũng và Bộ chính trị CSVN muốn gì hay
sẽ được lợi gì khi có những chuyển hướng qua bài phát biểu của ông
Dũng?
Thứ nhất, sợ bị cô lập và coi thường trong khối ASEAN trong lúc Phi
Luật Tân sẵn sàng sống chết với Trung Quốc, CSVN đã mang Hoa Kỳ ra ca
ngợi để vừa cho thấy Hà Nội sẵn sàng “thân thiện” với Mỹ, vừa chứng tỏ
có khoảng cách với Bắc Kinh.
Thứ hai, giải tỏa mặc cảm quá lệ thuộc vào Trung Quốc trên một diễn
đàn quốc tế, đặc biệt là trên diễn đàn đối thoại Sangri-La, để dùng đó
như một thành quả “ngoại giao” nhằm tuyên truyền lên dư luận quần chúng
đảng viên trong nước rằng đảng vẫn giữ sự độc lập tự chủ đối với Bắc
Kinh.
Thứ ba, gieo vào thành phần trí thức, cựu cán bộ CSVN một sự kỳ vọng
rằng lãnh đạo Hà Nội – ít nhất là ông Nguyễn Tấn Dũng – biết suy xét để
chọn con đường đi gần với Hoa Kỳ hơn hầu giảm thiểu nguy cơ Hán hóa mà
cả nước đang biểu tình chống đối liên tục.
Thứ tư, giải tỏa cho chính chế độ về đường lối đối ngoại mang đầy
kịch tính “tiến thoái lưỡng nan” khi bị chỉ trích là đang nô lệ Tàu và
đàn áp các nhà dân chủ yêu nước chống Trung Quốc.
Với những lý do được phân tích nói trên, rõ ràng là bài phát biểu của
ông Dũng nhắm vào cho chế độ CSVN nhiều hơn là cho dân tộc và đất nước
Việt Nam. Nói cách khác, nội dung phát biểu tại Sangri-La của ông Dũng
hoàn toàn mang tính chất cơ hội và không có chủ trương tiếp cận thật sự
với Hoa Kỳ.
Kỳ Vọng Gì Cuộc Gặp Obama – Trương Tấn Sang?
Trong cuộc họp báo vào ngày 22 tháng 7, đúng vào ngày ông Trương Tấn
Sang dẫn một phái đoàn sang thăm viếng Hoa Kỳ, ông Danny Russel, tân phụ
tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Đông Á – Á Châu Thái Bình Dương, đã có cuộc
họp báo, tuyên bố một số điều xem ra khá mâu thuẫn.
Ông Danny Russel cho rằng Hoa Kỳ đang có những quan hệ song phương
rất tốt với CSVN và chuyến thăm Mỹ của ông Trương Tấn Sang được coi là
dấu mốc lịch sử của mối quan hệ này. Trong khi đó, ông Danny Russel cho
biết là trước khi Tổng thống Obama đón tiếp ông Sang tại Tòa Bạch Ốc,
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ gặp riêng phái đoàn ông Sang vào chiều
ngày 24 tháng 7.
Nhìn vào cách đón tiếp của Tòa Bạch Ốc đối với ông Trương Tấn Sang,
rõ ràng là mối quan hệ song phương Việt Mỹ không tốt như ông Danny
Russel trình bày, nếu không nói là khá “tẻ nhạt” so sánh với những tiếp
đón mà Bắc Kinh dành riêng cho ông Sang trong chuyến viếng thăm Trung
Quốc hồi tháng 6 vừa qua.
Đương nhiên mỗi quốc gia có những thủ tục ngoại giao khi đón tiếp
khách mời; nhưng qua cách đón tiếp của Tổng thống Obama dành cho ông
Trương Tấn Sang, sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng đã có những công khai muốn
“xích lại” phía Hoa Kỳ, cho thấy là Hoa Kỳ chưa thật sự coi CSVN là một
đối tác cần phải tranh thủ mạnh mẽ vào lúc này.
Mặc dù Tòa Bạch Ốc đã thông báo một số nội dung sẽ được Tổng Thống
Obama đề cập đến trong lúc gặp ông Trương Tấn Sang, có hai vấn đề được
coi là quan trọng chi phối những bước tiến mới trong quan hệ song phương
Việt Mỹ là: 1/ Quan hệ đối tác an ninh chiến lược; 2/ Vấn đề tôn trọng
nhân quyền của CSVN.
Hai vấn đề gai góc nói trên không nằm trong trách nhiệm mà Bộ chính
trị trao cho ông Trương Tấn Sang. Ông Sang chỉ lo về mảng tư pháp. Ông
Nguyễn Phú Trọng phụ trách về quốc phòng nên cầm chịch về quan hệ đối
tác an ninh chiến lược. Còn vấn đề nhân quyền thì thuộc trách nhiệm an
ninh và đối ngoại của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Khi những lãnh vực phụ trách được phân chia trong Bộ chính trị như
vậy, cũng như tình trạng kèn cựa quyền lực giữa hai phe Nguyễn Phú Trọng
và Nguyễn Tấn Dũng trong suốt 2 năm vừa qua, Hoa Kỳ đã nhìn thấy rõ ông
Trương Tấn Sang không phải là nhân vật để “mặc cả”.
Tóm lại, chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang từ ngày 23
đến 27 tháng 7, hoàn toàn mang tính ngoại giao và là trái đệm, chuẩn bị
cho chuyến thăm viếng Việt Nam của Tổng Thống Obama vào cuối năm, khi
ông Obama sang dự Hội nghị Thượng Đỉnh Đông Á tại Brunei vào cuối tháng
11 năm 2013.
Hơn thế nữa, CSVN không hề có những chỉ dấu thay đổi để đến gần hơn
với Hoa Kỳ, mà vẫn duy trì thái độ thân thiện với Trung Quốc qua việc
đàn áp những người Việt yêu nước chống Bắc Kinh. Điều gì Hà Nội tuyên bố
hay ứng xử hiện nay cũng chỉ thể hiện “nói một đàng, làm một nẻo” mà
thôi.
Do đó, quan hệ Việt Mỹ cũng sẽ không có một bước gì mới sau chuyến đi
này vì ông Trương Tấn Sang không phải là nhân vật để tạo ra những
chuyển biến mới, trong khi hai ông Dũng và ông Trọng đang coi Bắc Kinh
là chiếc phao quan trọng của họ trong cuộc chạy đua quyền lực tại Đại
hội XII vào năm 2016.
Lý Thái Hùng
Ngày 23/7/2013
Ngày 23/7/2013