Trước
năm 1975, Mỹ đã viện trợ cho quân đội Sài Gòn hàng trăm tàu chiến lớn
nhỏ. Sau này, qua các tài liệu cả chính thức và không chính thức, ít
nhất 30 chiếc đã chạy sang Philippines và gia nhập hải quân nước này.
Trong đó, khu trục hạm HQ 01 Trần Hưng Đạo là soái hạm của Philippines.
Trong
số hàng trăm tàu chiến Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, chiếm đa số
đều là các tàu cỡ nhỏ, số tàu tải trọng lớn còn lại, phần lớn là loại
tàu tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ.
Có
thể thống kê sơ bộ không dưới 30 tàu chiến các loại mà binh lính VNCH
đã tháo chạy khỏi Việt Nam năm 1975 và Philippines đã trưng dụng cho lực
lượng Hải quân của mình, gồm:
- 1 khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1 (chuyển thành BRP Rajah Lankandula-PS-4);
- 5 tuần dương hạm (WHEC): Trần Quang Khải HQ 2 (thành BRP Diego Silang PS-9); Trần Nhật Duật HQ 3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác của HQ Phi); Trần Bình Trọng HQ 5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10); Trần Quốc Toản HQ 6 (cùng số phận như HQ 3); Lý Thường Kiệt HQ 16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7); Ngô Quyền HQ 17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8);
- 5 Hộ tống hạm (PCE): Đống Đa II HQ 07 (thành BRP Sultan Kudarat PS-22); Chi Lăng II HQ 08 (thành BRP Magat Salamat PS-20); Chí Linh HQ 11 (thành BRP Datu Tupas PS-18); Ngọc Hồi HQ 12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19); Vạn Kiếp HQ 14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23).
- 5 Dương vận hạm (LST): Cam Ranh HQ 500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86); Thị Nại HQ 502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87); Nha Trang HQ 505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54); Mỹ Tho HQ 800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57); Cần Thơ HQ 801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)
- 1 Cơ Xưởng hạm (ARL): Vĩnh Long HQ 802 (thành BRP Yakal AR-617)
- 3 Hải vận hạm (LSM): Hát giang HQ 400 (thành BRP Western Samar LP-66); Hàn giang HQ 401 (dùng lấy cơ phận); Hương giang HQ 404 (thành BRP Batanes LP-65)
- 3 Trợ chiến hạm (LSSL): Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 (thành BRP La Union LF-50); Lưu Phú Thọ HQ 229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác); Nguyễn Đức Bổng HQ 231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)
- 3 Giang pháo hạm (LSIL): Thiên kích HQ 329; Lưu công HQ 330; Tầm sét HQ 331
- 2 Hỏa vận hạm (YOG), tức sà lan tự hành để chở dầu: HQ 470 và HQ 471
- 1 Tuần duyên hạm (PGM): Hòn trọc HQ 618 (thành BRP Basilan PG-60)
Ngoài ra, còn một số tàu khác như trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 BRP Sulu LF-49, HQ 474…
Trong số các tàu chiến lớn có hai tàu khu trục hộ tống lớp lớp Edsall là HQ-1 Trần Hưng Đạo và HQ-4 Trần Khánh Dư. Tàu lớp Edsall có lượng giãn nước 1.590 tấn, dài 93,3m. Tàu vũ trang 3 pháo hạm 76mm, 2 pháo phòng không 40mm, 8 pháo phòng không 20mm, 3 máy phóng ngư lôi 533mm, hệ thống cối chống ngầm.
Chiếc HQ-1 được Philippines sửa chữa nâng cấp (bỏ tháp pháo 76mm và thay bằng 2 tháp pháo 127mm) và chính thức đưa vào trang bị tháng 7/1976 với cái tên mới BRP Rajah Lakandula (PF-4).
Từ năm 1981-1988, BRP Rajah Lakandula trở thành soái hạm Hải quân Philippines. Con tàu chủ yếu tham gia nhiệm vụ tuần tra bảo vệ biển, thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Năm 1988, con tàu loại ra khỏi biên chế hải quân và được sử dụng như doanh trại nổi vịnh Subic tới năm 1999 thì bị phá dỡ.
Trong biên chế Hải quân VNCH còn có 7 tàu chiến lớp Casco được coi là những tàu lớn nhất. Thậm chí, VNCH còn gọi nó là “tuần dương hạm”, dù lượng giãn nước chỉ tương đương khinh hạm. Thực tế, trước khi chuyển cho VNCH, 7 tàu Casco được dùng cho lực lượng tuần duyên bảo vệ bờ biển Mỹ.
Tàu lớp Casco có lượng giãn nước 2.800 tấn, dài hơn 94m, thủy thủ đoàn gần 200 người. Hệ thống vũ khí hạng nhẹ: tháp pháo 127mm, pháo cối 81mm và súng máy.
Trong 6 chiếc lớp Casco, Philippines chỉ dùng 4 chiếc còn lại 2 chiếc được tháo dỡ lấy phụ tùng. Khinh hạm BRP Andres Bonifacio (PF-7) thuộc lớp Casco, tên cũ trong Hải quân VNCH là HQ-16 Lý Thường Kiệt.
Năm 1979, chính quyền Philippines quyết định hiện đại hóa toàn diện hệ thống vũ khí và điện tử và điện tử trên 4 tàu. Tàu lắp thêm pháo 20-40mm, thiết kế thêm sân đáp trực thăng ở đuôi tàu.
Tới cuối những năm 1980, Hải quân Philippines dự định trang bị thêm tổ hợp tên lửa hành trình RGM-84 Harpoon nhưng do khủng hoảng kinh tế nên không thực hiện được.
Giai đoạn 1991-1993 và năm 2003, cả bốn tàu lần lượt bị phá dỡ.
Hầu hết các tàu chiến cỡ lớn của VNCH trong Hải quân Philippines đều bị loại bỏ vào những năm 1990 nhưng vẫn có một số ít được hoạt động tới tận ngày nay. Tính đến năm 2012, chỉ còn 7 chiếc trong số này còn hoạt động trong biên chế hải quân Philippines, gồm:
Dương Vận Hạm LST:
Zamboanga Del Sur LT-86, nguyên là LST Cam Ranh HQ 500.
BRP Cotabato Del Sur LT-87, nguyên là LST Thị Nại HQ502.
BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801.
BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.
Hộ Tống Hạm PCE:
BRP Sultan Kudarat PS-22, nguyên là PCE Đống Đa II HQ 07.
BRP Magat Salamat PS-20, nguyên là PCE Chi Lăng II HQ 08.
BRP Miguel Malvar PS-19, nguyên là PCE Ngọc Hồi HQ 12.
Mặc dù đến nay đã ở tuổi ngoài 70 nhưng ba hộ tống hạm này vẫn chưa có dấu hiệu được nghỉ hưu
Một trong những tâm điểm của cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborought/Hoàng Nham là căn cứ nổi do một tiểu đội Thủy quân lục chiến Philippines đồng trú để xác định chủ quyền của mình. Căn cứ này thực tế là xác Dương Vận Hạm LST Mỷ Tho HQ-800, sau năm 1975 được Philippines đổi tên thành BRP LT-52 .
Nguồn Người đưa tin
- 1 khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1 (chuyển thành BRP Rajah Lankandula-PS-4);
- 5 tuần dương hạm (WHEC): Trần Quang Khải HQ 2 (thành BRP Diego Silang PS-9); Trần Nhật Duật HQ 3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác của HQ Phi); Trần Bình Trọng HQ 5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10); Trần Quốc Toản HQ 6 (cùng số phận như HQ 3); Lý Thường Kiệt HQ 16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7); Ngô Quyền HQ 17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8);
- 5 Hộ tống hạm (PCE): Đống Đa II HQ 07 (thành BRP Sultan Kudarat PS-22); Chi Lăng II HQ 08 (thành BRP Magat Salamat PS-20); Chí Linh HQ 11 (thành BRP Datu Tupas PS-18); Ngọc Hồi HQ 12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19); Vạn Kiếp HQ 14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23).
- 5 Dương vận hạm (LST): Cam Ranh HQ 500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86); Thị Nại HQ 502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87); Nha Trang HQ 505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54); Mỹ Tho HQ 800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57); Cần Thơ HQ 801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)
- 1 Cơ Xưởng hạm (ARL): Vĩnh Long HQ 802 (thành BRP Yakal AR-617)
- 3 Hải vận hạm (LSM): Hát giang HQ 400 (thành BRP Western Samar LP-66); Hàn giang HQ 401 (dùng lấy cơ phận); Hương giang HQ 404 (thành BRP Batanes LP-65)
- 3 Trợ chiến hạm (LSSL): Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 (thành BRP La Union LF-50); Lưu Phú Thọ HQ 229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác); Nguyễn Đức Bổng HQ 231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)
- 3 Giang pháo hạm (LSIL): Thiên kích HQ 329; Lưu công HQ 330; Tầm sét HQ 331
- 2 Hỏa vận hạm (YOG), tức sà lan tự hành để chở dầu: HQ 470 và HQ 471
- 1 Tuần duyên hạm (PGM): Hòn trọc HQ 618 (thành BRP Basilan PG-60)
Ngoài ra, còn một số tàu khác như trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 BRP Sulu LF-49, HQ 474…
Trong số các tàu chiến lớn có hai tàu khu trục hộ tống lớp lớp Edsall là HQ-1 Trần Hưng Đạo và HQ-4 Trần Khánh Dư. Tàu lớp Edsall có lượng giãn nước 1.590 tấn, dài 93,3m. Tàu vũ trang 3 pháo hạm 76mm, 2 pháo phòng không 40mm, 8 pháo phòng không 20mm, 3 máy phóng ngư lôi 533mm, hệ thống cối chống ngầm.
Chiếc HQ-1 được Philippines sửa chữa nâng cấp (bỏ tháp pháo 76mm và thay bằng 2 tháp pháo 127mm) và chính thức đưa vào trang bị tháng 7/1976 với cái tên mới BRP Rajah Lakandula (PF-4).
Từ năm 1981-1988, BRP Rajah Lakandula trở thành soái hạm Hải quân Philippines. Con tàu chủ yếu tham gia nhiệm vụ tuần tra bảo vệ biển, thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Năm 1988, con tàu loại ra khỏi biên chế hải quân và được sử dụng như doanh trại nổi vịnh Subic tới năm 1999 thì bị phá dỡ.
Trong biên chế Hải quân VNCH còn có 7 tàu chiến lớp Casco được coi là những tàu lớn nhất. Thậm chí, VNCH còn gọi nó là “tuần dương hạm”, dù lượng giãn nước chỉ tương đương khinh hạm. Thực tế, trước khi chuyển cho VNCH, 7 tàu Casco được dùng cho lực lượng tuần duyên bảo vệ bờ biển Mỹ.
Tàu lớp Casco có lượng giãn nước 2.800 tấn, dài hơn 94m, thủy thủ đoàn gần 200 người. Hệ thống vũ khí hạng nhẹ: tháp pháo 127mm, pháo cối 81mm và súng máy.
Trong 6 chiếc lớp Casco, Philippines chỉ dùng 4 chiếc còn lại 2 chiếc được tháo dỡ lấy phụ tùng. Khinh hạm BRP Andres Bonifacio (PF-7) thuộc lớp Casco, tên cũ trong Hải quân VNCH là HQ-16 Lý Thường Kiệt.
Năm 1979, chính quyền Philippines quyết định hiện đại hóa toàn diện hệ thống vũ khí và điện tử và điện tử trên 4 tàu. Tàu lắp thêm pháo 20-40mm, thiết kế thêm sân đáp trực thăng ở đuôi tàu.
Tới cuối những năm 1980, Hải quân Philippines dự định trang bị thêm tổ hợp tên lửa hành trình RGM-84 Harpoon nhưng do khủng hoảng kinh tế nên không thực hiện được.
Giai đoạn 1991-1993 và năm 2003, cả bốn tàu lần lượt bị phá dỡ.
Hầu hết các tàu chiến cỡ lớn của VNCH trong Hải quân Philippines đều bị loại bỏ vào những năm 1990 nhưng vẫn có một số ít được hoạt động tới tận ngày nay. Tính đến năm 2012, chỉ còn 7 chiếc trong số này còn hoạt động trong biên chế hải quân Philippines, gồm:
Dương Vận Hạm LST:
Zamboanga Del Sur LT-86, nguyên là LST Cam Ranh HQ 500.
BRP Cotabato Del Sur LT-87, nguyên là LST Thị Nại HQ502.
BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801.
BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.
Hộ Tống Hạm PCE:
BRP Sultan Kudarat PS-22, nguyên là PCE Đống Đa II HQ 07.
BRP Magat Salamat PS-20, nguyên là PCE Chi Lăng II HQ 08.
BRP Miguel Malvar PS-19, nguyên là PCE Ngọc Hồi HQ 12.
Mặc dù đến nay đã ở tuổi ngoài 70 nhưng ba hộ tống hạm này vẫn chưa có dấu hiệu được nghỉ hưu
Một trong những tâm điểm của cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborought/Hoàng Nham là căn cứ nổi do một tiểu đội Thủy quân lục chiến Philippines đồng trú để xác định chủ quyền của mình. Căn cứ này thực tế là xác Dương Vận Hạm LST Mỷ Tho HQ-800, sau năm 1975 được Philippines đổi tên thành BRP LT-52 .
Nguồn Người đưa tin