Jonathan London
‘Những cuộc hội đàm mang tính đột phá’ không phải là thuật
ngữ đầu tiên nảy ra trong đầu khi ta xét đến lịch sử quan hệ Việt-Mỹ.
Tuy nhiên với cuộc gặp diễn ra trong tuần này, Chủ tịch Việt Nam Trương
Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barrack Obama có cơ hội đặt quan hệ giữa hai
nước cựu thù trong chiến tranh trên một nền tảng mới. Đối với Việt Nam,
cuộc gặp này đánh dấu một thời điểm hệ trọng và có thể tạo biến đổi.
Khoảng 38 năm sau khi kết thúc một trong những cuộc chiến tranh thảm
khốc nhất trong lịch sử, Việt Nam vẫn còn tương đối nghèo. Nhưng hơn hai
thập niên tăng trưởng kinh tế nhanh đã làm giảm đáng kể nạn đói nghèo,
và những cải thiện quan trọng, tuy không đồng đều, về mức sống. Việt Nam
đương đại là một nước đang công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng,
đang chật vật biến tiềm năng của mình thành hiện thực. Để đạt được như
vậy, Việt Nam đương đầu với ba nhóm thách thức hệ trọng. Mối quan hệ với
Mỹ đều có liên quan với mỗi nhóm thách thức đó.
Nhóm thách thức đầu tiên là về kinh tế. Dù có tiềm năng, Việt Nam gần
đây đã sa vào quỹ đạo tăng trưởng thấp, đó là kết quả không chỉ của
tình trạng suy thoái toàn cầu mà còn do hệ thống quản lý kinh tế kém cỏi
của nước này. Khác với các nước Đông Á đã công nghiệp hóa thành công,
Việt Nam thiếu giới lãnh đạo mạnh, có năng lực, và tương đối có quyền tự
chủ cần để thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp một cách chặt chẽ, mạnh mẽ,
và lâu dài. Thay vì thế, những nhóm lợi ích chỉ biết vun vén tối đa cho
bản thân bên trong và trên các biên giới của nhà nước đã bất chấp lợi
ích quốc gia để kiếm lợi cho riêng mình. Bằng cách này, Việt Nam đã hình
thành một trật tự kinh tế hỗn loạn đe dọa gây thiệt hại cho tăng trưởng
trong tương lai.
Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam cần ba điều: cơ sở hạ tầng tốt hơn,
lực lượng lao động có kỹ năng cao hơn, và cách quản lý có năng lực, minh
bạch và có trách nhiệm giải trình cao hơn. Các mối quan hệ hữu hảo hơn
với Mỹ tự thân không thể giải quyết các nhược điểm này. Mặt khác, thương
mại gia tăng với Mỹ có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và mang
lại các lợi ích có thể đáng kể cho thường dân Việt Nam. Triển vọng quan
hệ hữu hảo hơn với Mỹ có thể tạo nguồn sinh khí mới cho các cải cách
kinh tế chậm chạp của Việt Nam. Việc Đảng Cộng sản nhất quyết về một nền
kinh tế thị trường được điều phối không nhất thiết là rào cản đối với
việc phát triển một nền kinh tế thị trường hiệu quả hơn. Nhưng cách quản
lý kinh tế hiệu quả sẽ đòi hỏi phải có một cách tiếp cận mới mẻ, và
những cơ hội kinh tế và động cơ khuyến khích từ Mỹ có thể khuyến khích
cách tiếp cận đó.
Nhóm thách thức thứ hai liên quan đến các vấn đề quốc tế. Một trong
những thách thức quan trọng dù có thể không thể giải quyết được là xử lý
các mối quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Khác với Mỹ, Việt Nam có hàng
ngàn năm kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc. Nhưng sự vươn lên của Trung
Quốc đặt ra những vấn đề khó khăn cho cả Việt Nam và Mỹ. Một mặt, Trung
Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và Hà Nội sẽ được rất
nhiều nếu có quan hệ ổn định, và thiệt rất nhiều nếu có quan hệ bất ổn.
Mặt khác, chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc gây ra các mối đe dọa
nghiêm trọng cho an ninh kinh tế của Việt Nam.
Trong những mối đe dọa này, rõ nhất là các tuyên bố chủ quyền của
Trung Quốc ở Biển Đông Nam Á (một thuật ngữ phù hợp hơn “Biển Nam Hoa”).
Lo ngại phải quá nghiêng về một trong hai hướng, nhiều vị trong giới
lãnh đạo Việt Nam muốn nhắc đến tầm quan trọng của việc xây dựng các mối
quan hệ hợp tác chiến lược với cả Trung Quốc và Mỹ; đó là một ý tưởng
hợp lý. Tuy nhiên, quan hệ hữu hảo hơn với Mỹ có thể sẽ giúp Việt Nam
ngăn chặn các hành vi bắt nạt của Bắc Kinh, dù nước đi quan trọng nhất
sẽ là Mỹ phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Để chống lại ảnh
hưởng của Trung Quốc, Việt Nam cần được ủng hộ mạnh hơn trên trường
quốc tế. Các quan hệ chặt chẽ với Mỹ có thể hữu ích.
Nhóm thách thức cuối cùng liên quan đến chính trị Việt Nam và quả
thực hệ thống chính trị của nước này. Một số người đã mô tả tình hình
chính trị hiện nay ở Việt Nam là khủng hoảng. Quả thật, sự cạnh tranh
căng thẳng trong nội bộ đảng trong mấy năm qua đã tạo ra một bối cảnh
chính trị có tính cạnh tranh và dễ thay đổi hơn. Tuy nhiên, vì thiếu chế
độ pháp trị và các thể chế có trách nhiệm giải trình, chính trị Việt
Nam đã thoái hóa thành một kiểu lệch lạc của đa nguyên trong nội bộ đảng
trong đó các xu hướng tự vun vén tối đã cho bản thân của các nhóm lợi
ích đã gây tác hại cho cách quản lý nhà nước chặt chẽ, đôi khi tạo ấn
tượng về một nhà nước mất phương hướng.
Hiện thời, các cải cách chính trị căn bản vẫn chưa thấy đâu. Nhưng
các cải cách như vậy có lẽ cần thiết nếu Việt Nam muốn thoát khỏi tình
trạng chính trị và kinh tế bê bết hiện nay. Những cải thiện quan trọng
về các quyền chính trị, việc chấm dứt các cuộc bắt bớ tùy tiện những
người phê phán chế độ, việc tôn trọng nhiều hơn các quyền được hiến pháp
bảo đảm về tự do báo chí và tự do lập hội có thể sẽ đưa đến những cải
thiện rất quan trọng trong các mối quan hệ giữa Hà Nội và Washington.
Suy cho cùng, sự tiến hóa của nền kinh tế chính trị Việt Nam sẽ do chính
chính trị ở Việt Nam quyết định. Song, tính chính danh trong tương lai
của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể giành được bằng các biện pháp trấn
áp.
JL
(Bài này viết và dịch từ tiếng Anh)