Nguyễn Hưng Quốc
Nhân chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang ở Mỹ trong mấy
ngày cuối tháng 7 vừa qua, thử nghĩ về mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ.
Điều đầu tiên cần nhấn mạnh ngay là quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ được
xây dựng trên một nền tảng khá bất bình thường: sau một cuộc chiến tranh
đẫm máu kéo dài; và, có lẽ, do ảnh hưởng của nền tảng ấy, nó phát triển
khá chậm: Đã 38 năm sau chiến tranh, 18 năm sau ngày bình thường hóa
ngoại giao và 16 năm kể từ ngày Tòa Đại sứ Mỹ mở cửa tại Hà Nội, quan hệ
giữa hai nước tuy càng ngày càng được mở rộng nhưng nó lại không có
chiều sâu gì đặc biệt như hai bên – hoặc ít nhất một số người ở cả hai
bên – mong muốn.
Mục đích chuyến đi của Trương Tấn Sang ở Mỹ là để “nâng cấp quan hệ”
với Mỹ. Trong các phát biểu đây đó, Trương Tấn Sang luôn luôn nhấn mạnh
là Việt Nam xem Mỹ là “đối tác quan trọng hàng đầu”, một “đối tác tích
cực, hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng
có lợi”. Trong thông báo chung, phía Việt Nam và Mỹ còn dùng chữ “đối
tác toàn diện” (comprehensive partnership).
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng
Hoàng gia Úc, cho chuyến đi của Trương Tấn Sang được tổ chức một cách
vội vã, “chỉ có hai tuần lễ để chuẩn bị”, một thời gian ngắn bất thường
trong quan hệ quốc tế. Sự “vội vã” ấy có lẽ xuất phát từ chuyến đi thăm
Trung Quốc của Trương Tấn Sang vào giữa tháng 6 vừa qua, ở đó, Trương
Tấn Sang và Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam nhận thấy nhu cầu đến
gần Mỹ trở thành khẩn thiết hơn.
Nói cách khác, Việt Nam cần Mỹ để cân bằng lực lượng với Trung Quốc,
đặc biệt trong các tranh chấp ở Biển Đông. Điều này đã được Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng bắn tiếng trong bài phát biểu khai mạc trong cuộc Đối
thoại Shangri-La ở Singapore vào ngày 31/5/2013: “Tôi tin rằng các nước
trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài
khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và
phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước
lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách
nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ
của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. […] Chúng ta đặc
biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và
của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương.”
Đó cũng chính là điều Mỹ đang cần. Trong chiến lược trở lại châu Á để
kiềm hãm sự bành trướng của Trung Quốc, Mỹ rất cần đồng minh trong khu
vực. Hiện nay, họ đã có một số đồng minh chiến lược rất đáng tin cậy:
Nhật, Hàn Quốc, Philippines và Úc. Để vòng vây thực sự được thắt chặt,
họ cần thêm những đồng minh khác nữa: các nước Đông Nam Á. Trong các
nước Đông Nam Á, nước có vị trí quan trọng nhất chính là Việt Nam, nước
có biên giới chung với Trung Quốc, hơn nữa, đó cũng là nước có vùng biển
đang bị Trung Quốc dòm ngó nhiều nhất.
Trong quan hệ quốc tế, sự gặp gỡ của một nhu cầu chung là yếu tố quan
trọng nhất để nối kết hai quốc gia lại với nhau. Người ta hay nói, để
xây dựng quan hệ đối tác toàn diện với một nước nào đó, với Mỹ, có ba
trụ cột chính: Một, những lợi ích về chiến lược; hai, những lợi ích về
kinh tế; và ba, vấn đề nhân quyền hay những giá trị mà Mỹ muốn cổ vũ. Dư
luận hay chú ý đến yếu tố thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế, một điều hầu
như ai cũng biết là Mỹ, cũng như bất cứ quốc gia dân chủ và lớn mạnh
nào khác ở Tây phương, rất sẵn sàng bỏ qua yếu tố nhân quyền vì những
lợi ích về kinh tế cũng như về chính trị của họ. Lâu nay, ai cũng lên án
Trung Quốc về vấn đề nhân quyền, nhưng hầu như nước nào cũng bang giao
và làm ăn với Trung Quốc. Với Saudi Arabia, Equatorial Guinea,
Uzbekistan, Turkmenistan… Mỹ vẫn giữ quan hệ chặt chẽ dù tất cả đều là
những quốc gia độc tài và vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Việt Nam sẽ được hưởng những sự “ưu đãi” tương tự như vậy chăng?
Có thể. Trong cuộc họp giữa Trương Tấn Sang và Barack Obama ngày 25/7
vừa qua, có lẽ Tổng thống Mỹ chỉ đề cập đến vấn đề nhân quyền một cách
nhẹ nhàng dù ông thừa biết trong nửa đầu năm 2013, Việt Nam bắt bớ những
người bất đồng chính kiến nhiều hơn hẳn trong cả năm 2012 trước đó.
Trong số những người bị gọi là bất đồng chính kiến ấy, có nhiều blogger
và những người hoạt động tôn giáo với chủ trương bất bạo động; hơn nữa,
cái gọi là “bất đồng” ấy chủ yếu chỉ tập trung trong quan hệ đối với
Trung Quốc.
Nhưng được đề cập một cách nhẹ nhàng không có nghĩa là vấn đề không
còn sức nặng gì nữa. Thứ nhất là tuy Việt Nam đóng vai trò quan trọng
trong chiến lược trở về với châu Á của Mỹ nhưng đó không phải là một vai
trò không thể thay thế. Thứ hai, chính phủ Mỹ chịu khá nhiều áp lực từ
dư luận để không thể thản nhiên gạt bỏ các yêu sách về nhân quyền đối
với Việt Nam. Những áp lực ấy đến một phần, thậm chí, phần nhỏ, từ cộng
đồng người Việt ở Mỹ; phần khác, quan trọng hơn, từ chính dân chúng Mỹ,
những người vẫn còn bị ám ảnh nhiều với chiến tranh Việt Nam trước đây.
Chính ký ức chiến tranh này là một yếu tố khiến chính phủ Mỹ không thể
bất chấp dư luận được.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất quyết định quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ nằm ở chỗ khác: Sự tin cậy. Có thể nói ngay: hiện nay hầu như không
ai tin ai cả. Việt Nam cần Mỹ nhưng vẫn không tin Mỹ và cũng không muốn
Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam. Lý do đơn giản: từ phía giới cầm
quyền Việt Nam, tất cả các ảnh hưởng đến từ Mỹ, vốn gắn liền với xu
hướng dân chủ hóa, đều là những đe dọa đối với sự độc quyền và độc tài
của họ. Dân chúng Việt Nam, từ lâu, đã khái quát điều đó bằng nhận định:
“Đi với Mỹ thì mất đảng”. Còn Mỹ thì dĩ nhiên cũng không tin gì Việt
Nam.
Ký ức chiến tranh là một nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân chính là sự
khuất phục của Việt Nam đối với Trung Quốc. Từ các lời phát biểu đến
cách hành xử, kể cả những sự đàn áp dân chúng trong các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc, đều gợi lên ấn tượng là với Việt Nam, sự lựa chọn đã
rất rõ ràng: một mực đi theo Trung Quốc và sẵn sàng nhân nhượng Trung
Quốc. Việt Nam chỉ sử dụng các nước khác, kể cả Mỹ, để cò kè trả giá cho
sự nhân nhượng ấy mà thôi.
Không thể có quan hệ đối tác toàn diện hay chiến lược nào được xây dựng trên nền tảng những sự nghi ngờ như vậy cả.