Thomas A. Bass
Phạm Nguyên Trường dịch
Phạm Nguyên Trường dịch
Đó là những ngày đen tối ở Việt Nam, khi các nhà văn, nhà báo, các
blogger, và tất cả những người dám chỉ trích nhà cầm quyền đều bị tuyên
án tù nhiều năm. Thời nở rộ ngắn ngủi của văn học Việt Nam, sau khi Bức
tường Berlin sụp đổ năm 1989 – giai đoạn được gọi là Đổi mới –
đã qua từ lâu. Sau hai mươi năm bút đỏ và nhà tù, các nhà kiểm duyệt đã
xóa sổ cả một thế hệ nhà văn Việt Nam, đẩy họ vào cõi im lặng hay chốn
lưu vong.
Chính tôi đã phải chiến đấu suốt năm năm qua với các nhà kiểm duyệt
Việt Nam, vì họ đã tìm cách cắt xén, viết lại, và sau đó ngăn chặn việc
xuất bản bản dịch tiếng Việt cuốn The Spy Who Loved Us (2009), một trong những tác phẩm của tôi. Như bài báo trên New Yorker
xuất bản năm 2005 đã nói, cuốn sách kể về Phạm Xuân Ẩn, một nhà báo của
miền Nam Việt Nam, và là một điệp viên cộng sản hoạt động rất hiệu quả
trong một thời gian dài – từ những năm 1940 cho đến khi ông qua đời năm
2006 – khiến ông trở thành một trong những điệp viên vĩ đại nhất của thế
kỷ XX. Học ngành báo chí ở Mĩ và dùng nghề viết báo làm vỏ bọc, ông trở
thành phóng viên của tờ Time trong suốt cuộc Chiến tranh Việt
Nam và đã từng giữ chức trưởng văn phòng đại diện của tờ báo này ở Sài
Gòn một thời gian ngắn. Được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ chiến trường, đi
theo các cuộc hành quân, và phân tích tin tức chính trị và quân sự, ông
đã chuyển cho quân đội Bắc Việt những thông tin cực kì quí giá.
Sau chiến tranh, những người cộng sản chiến thắng đã phong ông là
Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và đưa ông vào hàng tướng lĩnh. Ông
trở thành đề tài cho các nhà viết tiểu sử, và sự thực là, sáu cuốn tiểu
sử đã được xuất bản, trong đó có một cuốn viết bằng tiếng Anh, của nhà
sử học Larry Berman ở Georgia State University. Cuốn sách nhan đề Perfect Spy
(2007) miêu tả Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước, một nhà phân tích
chiến lược, người đã quan sát cuộc chiến tranh từ xa, cho đến khi ông
nghỉ hưu và dành thời giờ tiếp đón những nhân vật nổi danh, từ Morley
Safer đến Daniel Ellsberg.
Tác phẩm của tôi về cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thì phiền hà hơn. Tôi
đã đi đến kết luận rằng người đàm đạo tuyệt vời này đã tạo ra một vỏ bọc
thứ hai là điệp viên. Tự xưng là một người bạn của phương Tây,
một người đàn ông trung thực, không bao giờ nói dối (mặc dù cả cuộc đời
ông là một sự lừa gạt), Phạm Xuân Ẩn đã làm việc cho ngành tình báo
quân sự Việt Nam, không chỉ trong Chiến tranh Việt Nam, mà còn kéo dài
suốt ba mươi năm sau chiến tranh. Đồng thời, những kẻ môi giới
quyền lực của miền Bắc cũng không tin ông, một người cực kì thông thái
xuất thân từ miền Nam, vì ông đã thẳng thắn tấn công vào sự tham nhũng
và thiếu năng lực của chính quyền cộng sản Việt Nam. Ông bị đố kị, chậm
thăng chức trong quân đội và nhiều năm trời bị cảnh sát theo dõi. Ban
đầu, có thể chính phủ Việt Nam đã hài lòng trước triển vọng xuất bản
không chỉ một mà hai cuốn sách do các tác giả Mỹ viết về người “điệp
viên hoàn hảo” của họ, nhưng càng đọc cách diễn giải của tôi về cuộc đời
của Phạm Xuân Ẩn thì các nhà kiểm duyệt càng lo lắng, và cuốn sách càng
phải bị cắt bỏ và viết lại, nếu muốn có giấy phép xuất bản.
Sau nhiều lần từ chối những đề nghị của một số nhà xuất bản về việc
dịch cuốn sách của tôi, trong đó có Nhà Xuất bản Công an Nhân dân (một
cơ quan của Bộ Công an Việt Nam) và Nhà Xuất bản của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch (một trong những cơ quan kiểm duyệt lớn nhất cả nước),
tháng 7 năm 2009 tôi đã ký hợp đồng với Nhã Nam, một nhà xuất bản có uy
tín; Jack Kerouac và Annie Proulx, Umberto Eco và Haruki Murakami nằm
trong danh sách các tác giả đã được nhà xuất bản này dịch. Nhã Nam là
một nhà xuất bản độc lập, một trong số ít nhà xuất bản tại Việt Nam
không liên kết với các bộ hoặc cơ quan kiểm duyệt nhà nước nào. Nhã Nam
đôi khi bị phạt vì xuất bản những cuốn sách “nhạy cảm”, và sách của họ
có lúc bị thu hồi và đem cán thành giấy vụn. Sau này tôi mới biết rằng
danh nghĩa độc lập của Nhã Nam không đảm bảo được cho sự độc lập của nó,
nhưng phải ghi nhận là công ty này đã thông báo cho tôi về mọi hành
động kiểm duyệt tác phẩm The Spy Who Loved Us trong suốt năm năm qua.
Nhiều tác giả không để ý đến những bản dịch tác phẩm của họ. Họ ủy
cho những người đại diện bán quyền xuất bản và sau đó hầu như không buồn
liếc qua khi bản dịch xuất hiện trong tiếng Đức hay tiếng Trung. Tôi có
một kế hoạch khác đối với bản dịch tiếng Việt tác phẩm của mình. Tôi
ngờ rằng nó sẽ bị kiểm duyệt và muốn theo dõi quá trình này. Tôi đã đề
nghị đại diện của tôi đưa vào hợp đồng điều khoản nói rằng nếu chưa được
tôi đồng ý thì cuốn sách sẽ không được xuất bản và phải thảo luận với
tôi về những thay đổi đối với nội dung tác phẩm. Những điều khoản khác
khiến cuốn sách này thành một cái gì đó tương tự như một cái máy đo địa
chấn văn học. Tôi muốn nó ghi lại công việc của các nhà kiểm duyệt, ghi
lại những ưu tư và lo lắng của họ, để cuối cùng tôi sẽ biết chính phủ
Việt Nam lo ngại và muốn ngăn chặn điều gì.
Quá trình dịch tác phẩm của tôi sang tiếng Việt bắt đầu vào tháng 3
năm 2010, đấy là hôm tôi nhận được một email nói rằng: “Tôi là Nguyễn
Việt Long của Công ty Nhã Nam, hiện đang hiệu đính bản dịch tác phẩm The Spy Who Loved Us. Tôi muốn trao đổi với ông về bản dịch.”
Ông Long bắt đầu bằng cách hỏi tôi có biết dấu chính xác ở tên người
ông của Phạm Xuân Ẩn không. Tiếng Anh không có dấu, nhưng trong tiếng
Việt thì dấu rất quan trọng, và tôi đánh giá cao sự quan tâm đến từng
chi tiết của ông ta. Đáng tiếc là, phần còn lại của email lại có giọng
điệu gây gổ hơn. “Ông có một số sai lầm,” ông ta viết, trước khi sửa
chữa một loạt sai sót. Nhiều sai sót mà ông ta đưa ra thực ra không phải
là sai sót, mà là cách lí giải hoặc đánh giá, hay là những vấn đề còn
gây tranh cãi trong các tài liệu lịch sử. Đại loại cũng tương đương với
kiểu “bình luận bóng chày chuyên sâu”, với những chi tiết rối mù, cốt để
các học giả chỉ xoay quanh tiểu tiết mà quên đi điểm chính.
Ví dụ, Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (vị Tổng thống đầu tiên của Việt
Nam Cộng hòa) có trở thành quan đầu tỉnh ở tuổi 25 hay không? Điều này
phụ thuộc vào ngày sinh của ông ấy, và là câu hỏi không dễ trả lời.
Người Việt có thói quen giấu ngày tháng năm sinh của mình, đây cũng là
cách để tránh tà ma, cải thiện lá số và thu hút bạn tình trẻ. Một tình
tiết mơ hồ đối với một tác giả người Mỹ hóa ra lại là vấn đề lớn đối với
người Việt. Nếu giả định rằng Ngô Đình Diệm là một con rối của Mỹ, một
con chó chỉ đường cho những tên đế quốc xâm lược, thì việc cuối cùng mà
người ta muốn là ghi nhận những thành tích của ông ta khi ông ta còn
trẻ. Vì vậy mà người ta phủ nhận sự kiện ông là quan đầu tỉnh trẻ nhất
trong lịch sử Việt Nam, và phức tạp hóa vấn đề đến mức tác giả thà bỏ
luôn lời khẳng định đó còn hơn là tiếp tục tranh cãi.
Trả lời câu hỏi của người đại diện về văn học của tôi, ngày 15 tháng
3, ông Long cho biết: “Sẽ bị kiểm duyệt (chắc chắn), cuốn sách khá nhạy
cảm. Nhưng xin đừng lo lắng. Chúng tôi sẽ tiếp tục nói chuyện với tác
giả và sẽ làm hết sức mình để bảo vệ được càng nhiều càng tốt sự nguyên
vẹn của tác phẩm.”
Ông Long tìm cách cho in vào dịp 30 tháng Tư – một ngày tốt, vì nó
đánh dấu sự cáo chung của Chiến tranh Việt Nam. Sau khi đại diện của tôi
nhắc rằng theo hợp đồng thì ông ta phải gửi cho tôi xem bản dịch trước
khi in, ông Long đã lỡ hẹn gửi bản dịch lần thứ nhất. Sau đó ông còn lỡ
hẹn nhiều lần nữa, và cuối cùng, sáu tháng sau, tháng 9 năm 2010, tôi
nhận được một bản bông. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là có quá nhiều chú
thích, trong một cuốn sách mà ban đầu không có một chú thích nào. Tôi đã
tập hợp được một nhóm bạn bè – các học giả, dịch giả, một cựu nhân viên
CIA và một nhà ngoại giao Mỹ với vợ là người Việt – để soát bản dịch.
Những hồi âm của họ khiến tôi phải tỉnh ngộ. Hình như, rất nhiều các chú
thích bắt đầu bằng: “Tác giả nhầm” (“The author is wrong.”). Sau đó,
người ta sửa “những sai lầm” của tôi.
Rõ ràng là, tôi đã hiểu sai chức năng của các biên tập viên Việt
Nam. Ngay cả trước khi đến tay các nhà kiểm duyệt – những người ban phát
giấy phép xuất bản ở Việt Nam – cuốn sách của tôi đã phải được người
trong nhà nhào nặn lại. Ông Long sẽ cho nó cú đấm thôi sơn đầu tiên, và
càng cắt gọt hữu hiệu thì ông ta càng được các quan chức nhà nước đánh
giá cao, để những người này có thể đậy nắp chiếc bút đỏ của họ lại và
chuyển sang kiểm duyệt những tác phẩm quan trọng hơn.
GIÁP LÁ CÀ TẠI HÀNG RÀO VĂN CHƯƠNG
Tôi viết thư cho ông Long, yêu cầu ông ta bỏ các chú thích. Anh
chàng tội nghiệp này bây giờ chẳng khác gì một con chuột bị kẹt giữa một
tác giả khó tính và các nhà kiểm duyệt khắt khe không kém. Khi chúng
tôi thả bước vào những điểm tinh tế của lịch sử và địa lý Việt Nam,
người biên tập viên của tôi và tôi viết cho nhau những bức thư rất dài.
Bản chất của cuộc trao đổi thư tín này được minh họa bằng Rừng Sát
(Swamp of Assassins), cũng là tình tiết đầu tiên được Long chú thích.
Nằm ở Đông Nam Sài Gòn, tiếp giáp công đường vận chuyển chính của thành phố ra biển, Rừng Sát là rừng ngập mặn vùng triều và nhiều năm trời đã là nơi trú ẩn của những toán cướp Bình Xuyên. Người Pháp đã sử dụng những toán cướp trên sông này nhằm trợ giúp những chiến dịch xâm lược của họ tại Việt Nam. Bảy Viễn, người cầm đầu những toán cướp này, đã được phong cấp tướng và được giao quản lí Sài Gòn như một thái ấp riêng. Ông ta là chủ của Xóm Bình Khang, một nhà thổ lớn nhất châu Á, với 1.200 nhân viên. Ông ta quản lí sòng bạc Đại Thế giới (Grande Monde) ở Chợ Lớn và sòng bạc Kim Chung (Cloche d’Or) ở Sài Gòn. Một viên trung úy của Bảy Viễn được cử làm đô trưởng cảnh sát cho một khu vực 60 dặm từ Sài Gòn đến Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Bảy Viễn – một phần được chia cho chính phủ Pháp – là buôn bán thuốc phiện, với thị trường trải dài từ Lào đến tận Marseille. Trong Chiến tranh Việt Nam, Rừng Sát trở thành khu vực tập kết của cộng sản, và những tên cướp sông đó đã đóng vai cộng sản trong một thời gian ngắn, trước khi trở cờ chạy sang phía bên kia.
Trước khi lui về sống ở Paris, nơi người ta có thể thấy ông dắt con
hổ cổ tròng dây xích của mình tản bộ dọc đại lộ Champs Elysees, Bảy Viễn
thường lánh về Rừng Sát mỗi khi không khí chính trị ở Sài Gòn trở nên
quá nóng. Đấy là năm 1955, khi điệp viên huyền thoại Edward Lansdale tới
thành phố này. Để hất cẳng Pháp khỏi thuộc địa này và thay thế bằng một
chính phủ trung thành với Mỹ, Lansdale tung ra một chiến dịch quân sự
chống Bình Xuyên. Để kiểm soát Sài Gòn, các đơn vị quân đội Việt Nam đã
chiến đấu nhằm giành giật từng ngôi nhà của bọn cướp. Số binh sĩ tham
gia vào trận chiến kéo dài một tuần này còn nhiều hơn trong trận Mậu
Thân nổi tiếng năm 1968. Năm trăm người thiệt mạng, hai ngàn người bị
thương, và 20.000 người mất hết nhà cửa. Trận đánh ủy nhiệm giữa Pháp và
Mỹ này đánh dấu bước chuyển từ Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất sang
Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai.
Phạm Xuân Ẩn nói rằng tất cả những gì ông biết về nghề gián điệp đều
nhờ học từ Edward Lansdale. Lansdale là người bảo trợ ông, khi ông bắt
đầu sự nghiệp tình báo quân sự, chính Lansdale đã đề nghị ông sang Mĩ
học nghề báo. Do tầm quan trọng của Rừng Sát đối với cả thực dân, cộng
sản cũng như những tên cướp và các nhà tình báo cho nên tôi đã lục rất
nhiều tài liệu lưu trữ để kiểm tra lại vị trí của nó trong lịch sử Việt
Nam. Đó là lý do vì sao tôi đặc biệt khó chịu khi thấy một chú thích nói
rằng: “Tác giả nhầm”.
Không được gọi là Rừng Sát mà phải là Rừng Sác,
ông Long nói, và bằng cách đó ông ta đã biến Rừng của những Sát thủ
(Swamp of Assassins) thành Rừng cây bụi ven biển (Forest of Seacoast
Shrubs). (Rừng có nghĩa là forest, nhưng khi nói về rừng ngập mặn thì người ta có thể gọi là swamp, đầm. Sát là kết hợp từ Hán Việt có nghĩa là giết, như trong ám sát.)
Chính phủ đã đổi tên khu đầm này, vì tên chính xác của nó từ xưa đến
nay không phải như thế. Tại sao? Bởi lẽ người miền Nam đã bóp lệch ngôn
ngữ của đất nước và vô tình cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ kéo dài
nhiều thế kỷ. Người miền Nam phát âm những từ có đuôi “t” thành “k” hoặc
“c”. Như vậy là, do nhầm lẫn mà Rừng Sác đã trở thành Rừng Sát
vì người miền Nam không thể phát âm chính xác và thường lẫn lộn khi có
hai từ nghe giống nhau. Chắc chắn là, đằng sau việc đổi tên này, các
quan chức cộng sản còn tỏ ra thận trọng về việc đã sử dụng Rừng Sát làm
bàn đạp trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Họ không muốn bị người ta nhầm,
coi họ cũng là những sát thủ sống ở đầm lầy.
Vấn đề có thể đã được giải quyết bằng cách nói rằng khu vực này thường được gọi là x và bây giờ được gọi là y.
Nhưng các nhà kiểm duyệt Việt Nam không làm việc theo cách đó. Họ có
một cái nhìn toàn cục về lịch sử. Họ quay lại quá khứ nhằm sửa chữa
những sai lầm theo lối hồi tố. Thậm chí trong bài diễn văn được trích
dẫn, Bảy Viễn và Lansdale sẽ buộc phải nói về rừng cây bụi ở ven biển.
Dễ hình dung là khi những thác ngộ niên đại và thuật ngữ cộng sản được
chèn vào các tài liệu lịch sử thì sẽ sinh ra kiểu văn chương thiếu tự
nhiên như thế nào. Vậy là tôi không có lựa chọn nào khác, ngoài tiến
hành một chiến dịch chứng minh rằng: “Biên tập viên nhầm” (“The editor
is wrong.”).
Tôi gửi cho ông Long một loạt bản đồ của Pháp và Việt Nam, trong đó
có bản đồ năm 1955 của Việt Nam, thể hiện những hoạt động quân sự chống
những toán cướp Bình Xuyên. Tôi gửi cả những bản đồ lấy từ các đơn vị
hải quân Mỹ hoạt động trong khu vực này, một bản sao đoạn văn của Tổng
thống Richard Nixon gửi Nhóm Tuần tra Đặc khu Rừng Sát, và bản báo cáo
năm 1974 về Rừng Sát của Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ. Tôi gửi một bản đồ vệ
tinh của Google năm 2010, với khu vực được đánh dấu là Rừng Sát, và tôi
thậm chí còn gửi một bức ảnh chụp một chiếc xe buýt đang rời khỏi thành
phố Hồ Chí Minh, với điểm đến dự kiến của nó được đánh dấu rõ ràng là
Rừng Sát.
Ông Long phúc đáp bằng những “bằng chứng” riêng của mình, trong đó
có web site của Resort và Restaurant Rừng Sác, và mấy tờ quảng cáo những
dự án về nhà ở đã được tài trợ, tôi đoán là, bởi những người lãnh đạo
Đảng ở địa phương. Tôi khẳng định luận cứ bằng cách gửi thêm nhiều email
hơn, cho đến khi ông Long viết: “Tôi đồng ý loại bỏ hoàn toàn chú thích
về Rừng Sát”. Khi thảo luận về các chú thích còn lại, ông Long và tôi
lại trở về với cuộc chiến giáp lá cà tại hàng rào của văn chương. Mỗi
cuộc trao đổi email đều biến thành một tái bản của Rừng Sát, cho đến khi
ông Long đề nghị “bỏ những chú thích sai hoặc những chú thích liên quan
đến sai lầm của ông”, tôi vui lòng chấp nhận đề nghị đó.
Sau đó chúng tôi chuyển sang thảo luận về nhan đề cuốn sách. The Spy Who Loved Us có thể được dịch là The Spy Who Loved America (Điệp viên yêu nước Mỹ), hoặc, trữ tình hơn, là America’s Best Enemy
(Kẻ thù tốt nhất của nước Mỹ), trừ khi các nhà kiểm duyệt không chấp
nhận những nhan đề này. Ông Long giải thích: “Kẻ thù tốt nhất của nước
Mỹ” là nhan đề tốt, nhưng có phần nhạy cảm. Tại sao lại là “kẻ thù tốt
nhất?” Điều đó có hàm ý rằng Phạm Xuân Ẩn không hoàn toàn trung thành
với sự nghiệp cách mạng hay không?” Sau khi suy nghĩ kĩ hơn về “quan
điểm đúng đắn”, ông Long thừa nhận rằng “vấn đề phức tạp hơn chúng ta
nghĩ lúc đầu”. Sau đó tôi nhận được thư nói rằng “Điệp viên yêu nước Mỹ”
đã bị “cơ quan quản lí xuất bản” của Việt Nam “bác bỏ ngay tức thì”.
Trong thời gian đó, những người giúp tôi xem lại bản thảo (tất cả
đều muốn giữ kín danh tính) đã lập ra danh sách những cụm từ, câu, và
đoạn văn đã bị cắt bỏ hay cắt xén. Tôi gửi danh sách này cho ông Long và
được ông trả lời: “Tôi đảm bảo với ông rằng người dịch đã không bỏ bất
kỳ câu hay đoạn văn nào. Anh ấy chỉ đánh dấu những từ nhạy cảm mà thôi.
Tất cả những chỗ bị bỏ hay sửa đổi đều là của tôi.”
Tháng 10 năm 2010, ông Long viết thư nói rằng ông ta đã “mệt vì dự
án này” và chán nản vì cuốn sách đã bị hai nhà xuất bản của nhà nước từ
chối. Ông đang tìm cách xin giấy phép từ nhà xuất bản thứ ba, nhưng mọi
người nói với ông ta rằng Đại hội XI sắp tới, mùa Xuân năm 2011, là
“giai đoạn nhạy cảm” đối với việc xuất bản ở Việt Nam. Đây là thời điểm
tế nhị, “khi tất cả mọi người đều không có động tĩnh gì để tránh những
vụ rắc rối”, ông ta nói.
Trong thư viết cho người đại diện của tôi vào tháng 12 năm 2010, ông
Long nói: “Chúng tôi thông cảm với sự sốt ruột của tác giả! Tuy nhiên,
tình hình còn tồi tệ hơn là ông tưởng tượng. Một nhà xuất bản nữa của
nhà nước đã từ chối cấp giấy phép xuất bản cho bản dịch của chúng tôi.
Rõ ràng là, đây là cuốn sách rất nhạy cảm trong thời điểm hiện nay. Mọi
thứ bây giờ đều bị treo lên đó.”
Khi ông Long viết thư cho tôi, nói rằng một loạt nhà xuất bản đã từ
chối cấp giấy phép, tôi mường tượng quá trình này cũng tương tự như
Random House phải làm việc về cuốn sách với Nhà Xuất bản của Lầu Năm
góc. Nếu Nhà Xuất bản của Lầu Năm góc không chịu thì Random House phải
đến Nhà Xuất bản của Bộ An ninh Nội địa hay Cục Điều tra Liên bang
(FBI). Những cuộc đàm phán phải kéo dài và làm người ta nhục nhã, và
trong một nền văn hóa xin-cho như ở Việt Nam, đấy chắc chắn là những
cuộc đàm phán khá tốn kém.
Tôi chờ đợi suốt năm 2011, đợi Đảng Cộng sản đưa ra những nhà cầm
quyền mới. Tháng 2 năm 2012, tôi viết thư cho ông Long, chúc ông một năm
Thìn nhiều hạnh phúc và đề nghị ông vui lòng gửi cho tôi danh sách tất
cả các cơ quan chính phủ từng tham gia vào việc kiểm duyệt cuốn sách của
tôi.
Một tháng sau, ông ta trả lời và xin lỗi vì không còn giữ được liên
lạc. Ông ta cho biết đã rời Nhã Nam để làm biên tập viên ở một nhà xuất
bản chuyên in sách toán học cho trẻ em. Tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt
vì sợ rằng mình có thể là nguyên nhân của sự thay đổi công việc của ông
ta. “Về giấy phép xuất bản cuốn The Spy Who Loved Us”, ông ta
viết, “Nhã Nam đã xin phép và vẫn tiếp tục xin một số nhà xuất bản cấp
giấy phép, chứ chưa bao giờ ngừng như ông có thể nghĩ. Tôi đã hỏi thông
tin mới nhất và người ta nói rằng những người lãnh đạo ở Nhã Nam vẫn hy
vọng là cuốn sách sẽ được xuất bản.”
“Chính thức thì chỉ có những nhà xuất bản của nhà nước mới được phép
in sách”, ông Long giải thích. “Vì vậy, muốn xuất bản thì công ty tư
nhân (không phải quốc doanh), ví dụ như Nhã Nam, phải tham gia vào cái
gọi là liên doanh xuất bản, nhằm được sự bảo trợ của nhà xuất bản của
nhà nước và phải trả phí xuất bản cho nhà xuất bản này.”
“Về mặt kỹ thuật, ở Việt Nam không có kiểm duyệt”, ông nói, “nhưng
các giám đốc hay tổng biên tập của các nhà xuất bản đôi khi yêu cầu bỏ
những đoạn nhạy cảm, hoặc thậm chí họ nhát đến mức bỏ hẳn, không in cuốn
sách (đây là trường hợp của chúng tôi). Hành động như thế, chúng tôi
gọi là tự kiểm duyệt, và nó là nút thắt theo kiểu Gordian của ngành xuất
bản Việt Nam.”
Ông Long gửi kèm bản sao Luật Xuất bản của Việt Nam, dày
hai mươi hai trang, nói rõ trong Điều 5.2, “Nhà nước không kiểm duyệt
tác phẩm trước khi xuất bản”. Phần còn lại của bộ luật này mâu thuẫn với
Điều 5.2 đó, vì nó đưa ra những thứ “bị cấm trong hoạt động xuất bản”.
Trong đó có “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam” (Điều 10), “kích động chiến tranh xâm lược”, “truyền bá tư tưởng
phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê
tín dị đoan, hoặc phá hoại thuần phong mỹ tục”. Những mục khác được dành
cho công tác bảo vệ Đảng, quân sự, quốc phòng và bí mật quốc gia.
“Xuyên tạc sự thật lịch sử”, đặc biệt là “phủ nhận thành tựu cách mạng”
cũng bị cấm.
Ông Long nói với tôi rằng biên tập viên mới của tôi ở Nhã Nam là cô
Nguyễn Thị Thu Yến, dường như đang vừa là biên tập vừa là người phụ
trách đàm phán hợp đồng với nước ngoài. Sau nhiều tháng trao đổi email,
ông Long và tôi đã chuẩn bị xong bản bông thứ hai, xóa hết các chú thích
và chỉnh lại ít nhất là những chỗ mà các vị cố vấn của tôi và tôi có
thể tìm ra. Nhưng bản thảo vẫn bị lược bỏ và viết lại hàng chục chỗ
khác. Tất cả những đoạn phê phán Trung Quốc đều bị gỡ bỏ. Cũng như vậy,
những đoạn nói về các trại cải tạo, về nạn hối lộ, tham nhũng, sai lầm
của Đảng Cộng sản, và những chủ đề “nhạy cảm” khác. Đáng tiếc là, chẳng
bao lâu sau, bản của ông Long được thay bằng một bản khác, phiên bản
chính thức được cấp phép. Một lần nữa, tôi lại hiểu sai bản chất của
ngành xuất bản ở Việt Nam. Sau bấy nhiêu tháng, cuốn sách của tôi vẫn
chưa được kiểm duyệt. Nó mới trải qua quá trình xem xét tiền kiểm duyệt
mà thôi, nhưng công việc xóa bỏ những đoạn nhạy cảm vẫn chưa bắt đầu.
BUÔN BÁN CON TIN
Tháng 6 năm 2012, tôi nhận được email của Thu Yến, thông báo rằng The Spy Who Loved Us (hoặc
bất kì nhan đề nào khác) cuối cùng đã được chấp thuận để đưa vào xuất
bản. Nhà xuất bản Lao Động, thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội của
Việt Nam, đã trở thành đối tác xuất bản của chúng tôi. Giống như bùa
thuật nhằm dọa nhát những nhà kiểm duyệt khác ít thế lực hơn, Lao Động
sẽ đứng tên trên bìa sách. Có một số nhượng bộ nhất định, cô Yến thừa
nhận. “Sau một thời gian rất dài xin giấy phép xuất bản, cuối cùng chúng
tôi nhận được kết quả khả quan của Nhà xuất bản Lao Động”, cô viết. “Để
cuốn sách của ông được xuất bản thì phải cắt và viết lại một số đoạn,
không thể làm khác. Tuy nhiên có điều đáng mừng là những điểm này được
biên tập khá tốt về tiếng Việt và văn chương.”
Không có trang in thử nào được gửi kèm. Thay vào đó, cô Yến gửi cho
tôi một miêu tả về văn bản đã được kiểm duyệt. “Vì tác phẩm của ông có
nội dung quá nhạy cảm, tôi hy vọng ông có thể coi những thay đổi này ở
khía cạnh tích cực nhất, để tác phẩm của ông có thể đến với độc giả của
chúng tôi.”
Kèm theo email của cô Yến là một văn bản dài mười hai trang, liệt kê
ít nhất là 333 chỗ bị cắt. Từng câu, từng đoạn văn, thậm chí từng trang
bị xóa sạch. Bắt đầu với nhan đề tác phẩm và cho đến cả lời cảm ơn cuối
cùng. Những sự kiện lịch sử cũng như nhiều tên người bị xóa bỏ. Võ
Nguyên Giáp, vị tướng vĩ đại của Việt Nam, người đã giành thắng lợi
trong trận Điện Biên Phủ, không còn là một nguồn trích dẫn nữa. Đại tá
Bùi Tín, người đã tiếp nhận sự đầu hàng của chính quyền miền Nam Việt
Nam năm 1975, bị xóa sạch khỏi văn bản và thậm chí xóa khỏi cả lời cảm
ơn. Những trường đoạn mô tả quan hệ qua lại của Phạm Xuân Ẩn với Đảng,
với quân đội, với Trung Quốc, và cảnh sát cũng bị xóa sạch. Nhiều đoạn
bông đùa hoặc có chút mỉa mai cũng bị cấm.
“Ở Việt Nam anh không viết sự thật được đâu”, một trong những cố vấn
của tôi, cựu giáo sư văn chương, hiện sống tại Hoa Kỳ, nói. “Đất nước
tôi bị lạc trong những lời dối trá. Con người nằm trong trung tâm tác
phẩm của anh, nhưng bây giờ nó đã bị tước hết các chi tiết khiến câu
chuyện trở thành đặc thù và hấp dẫn.”
“Người cộng sản muốn những phát ngôn từ chính miệng anh”, bà nói.
“Sự tuyên truyền chính thống của họ sẽ có vẻ xác thực hơn nếu nó được
một người phương Tây viết ra. Anh là công cụ của họ. Anh có thể phản đối
và đàm phán để có được những nhượng bộ nhỏ, nhưng cuối cùng, họ sẽ
thắng. Bao giờ họ cũng thắng.”
“Bây giờ ngay cả chữ nghĩa trong tác phẩm của anh cũng xấu xí”, bà
nói, “mờ mịt chứ không rõ ràng. Nhiều thuật ngữ được mượn từ tiếng
Trung. Nói cách khác, đấy là cái mà người Pháp gọi là langue de bois,
tiếng lóng của bộ máy quan liêu. Cộng sản nghĩ rằng dùng những từ đó
thì họ là bề trên. Họ muốn kiểm soát mọi thứ, thậm chí cả suy nghĩ của
anh.”
Sau khi so sánh phiên bản tác phẩm của tôi ở Nhà Xuất bản Lao Động
với bản thảo của ông Long, bà nói: “Có quá nhiều thứ mà các nhà kiểm
duyệt không thích, họ lập tức cắt, cắt, cắt. Chỉ nhìn cái bản thảo này
là tôi đã phát điên đầu rồi”. Phạm Xuân Ẩn không được phép “yêu” nước Mỹ
hay yêu thời kỳ ông học ngành báo chí ở California. Ông chỉ được phép
“hiểu” nước Mỹ. Câu nói đùa của ông, rằng ông không bao giờ muốn trở
thành điệp viên và coi đấy là “việc của lũ chó săn”, đã bị xóa hẳn. Lời
tuyên bố của ông rằng mình sinh ra ở thời khắc bi thảm trong lịch sử
Việt Nam, khi sự phản bội hiện diện khắp nơi, cũng bị cắt. Chiến dịch
quyên góp vàng do Hồ Chí Minh tổ chức năm 1946, khi ông kêu gọi mọi
người đóng góp những khoản hối lộ lớn nhằm thuyết phục quân đội Trung
Quốc phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam, bị xoá sạch trơn.
Gia đình của Phạm Xuân Ẩn không được phép “di cư từ Bắc vào Nam”. Ông cũng không được phép tham gia nam tiến.
Đó là công cuộc tiến về phương Nam diễn ra trong lịch sử Việt Nam, kéo
dài hàng trăm năm, khi người Việt đi dọc dãy Trường Sơn, chiếm lãnh thổ
của người Thượng, người Chăm, người Khmer, và các dân tộc “thiểu số”
khác. Đoạn ca ngợi nền văn học Pháp bị xóa. Phạm Xuân Ẩn không được phép
nói rằng người Pháp đã vẽ ra bản đồ của nước Việt Nam hiện đại. Ý kiến
của ông rằng chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng không tưởng, không thể
đạt được trong cuộc đời thực, cũng bị cắt. Lời ông khen Edward Lansdale
là một điệp viên tuyệt vời, ông học nghề từ chính ông này cũng bị cắt.
Trong toàn bộ tác phẩm, cuộc xâm lăng của miền Bắc được làm giảm bớt đi,
trong khi mức độ man rợ của miền Nam thì bị thổi phồng lên. Đảng viên
cộng sản luôn luôn đi đầu trong khi dân chúng thì vui vẻ theo sau. Những
cố gắng của Phạm Xuân Ẩn nhằm phân biệt giữa cuộc chiến đấu vì nền độc
lập của Việt Nam và cuộc chiến đấu vì chủ nghĩa cộng sản đã bị cắt.
Chúng tôi mới đọc đến trang 38 thì bạn tôi nói: “Họ muốn giết tác
phẩm này. Họ hoàn toàn không thích nó”. Những cuộc thảo luận về chiến
dịch Cải cách Ruộng đất và và quyền sở hữu tập thể của cộng sản – cắt.
Cộng sản không còn chịu trách nhiệm về việc phục kích và sát hại người
giáo viên trung học cũ của Phạm Xuân Ẩn vào năm 1947 nữa. Thay vào đó là
“một cuộc phục kích” của những kẻ vô danh nào đó. Ý kiến của John F.
Kennedy và Robert, em trai ông này, khi tới thăm Việt Nam năm 1951 –
cắt. Những đoạn nói về mấy hòn đảo của Việt Nam và những mỏ dầu ở ngoài
khơi hiện đang tranh chấp với Trung Quốc – cắt. Lời tuyên bố nói rằng
lực lượng hải tặc của Bảy Viễn đã chiến đấu vì cộng sản trước khi chạy
sang phía bên kia – cắt. “Càng ngày họ càng hoang tưởng hơn”, bà nói.
Chúng tôi lập được một danh sách dài các lỗi dịch thuật, những từ mà
các biên tập viên Việt Nam của tôi đã hoặc là hiểu lầm hoặc cố tình
không hiểu, đấy là những từ như: người viết thuê, sự phản bội, hối lộ, dối trá, khủng bố, tra tấn, tổ chức bình phong, dân tộc thiểu số và trại cải tạo. Người Pháp không được phép dạy người Việt Nam bất cứ điều gì. Người Mỹ cũng thế. Việt Nam chưa bao giờ tạo ra người tị nạn. Nó chỉ sinh ra những người định cư ở
nước ngoài. Những đoạn nói rằng chủ nghĩa cộng sản là “vị thần đã thất
bại” – cắt. Ý kiến của Phạm Xuân Ẩn rằng ông là bộ não Mỹ được ghép vào
cơ thể Việt – cắt. Đoạn phân tích của ông về cách thức mà cộng sản thay
nhà nước cảnh sát của Ngô Đình Diệm bằng nhà nước cảnh sát của mình –
cắt.
Câu chuyện về tổn thất đầu tiên của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam,
sự kiện ông A. Peter Dewey, sĩ quan của lực lượng OSS, vô tình bị cộng
sản giết năm 1945, đã bị xóa. Các sĩ quan quân đội Việt Nam bị tẩy khỏi
chiến dịch. Không được nói Tết Mậu Thân là một thất bại quân sự. Không
được kể chuyện chó bị thui. Những lỗi lầm trong lĩnh vực tình dục, tình
nhân, hôn nhân ép buộc – tất cả đều biến mất khi các quan chức cộng sản
dính vào. Những đoạn viết về Sài Gòn trong những tuần ngay sau khi chiến
tranh kết thúc, trong đó có tình trạng thiếu lương thực và thắt chặt an
ninh quốc gia – bị xóa sạch. Ngay cả lệnh cấm chọi gà cũng không được
nhắc tới. Những đoạn viết về thuyền nhân bỏ trốn sau năm 1975 – cắt.
Những đoạn viết về Việt Nam chiến đấu chống Campuchia năm 1978 – cắt.
Những đoạn viết về Việt Nam đánh nhau với Trung Quốc năm 1979 – cắt.
Mong muốn cuối cùng của Phạm Xuân Ẩn: hỏa táng và đem tro cốt rắc trên
sông Đồng Nai, đã bị cắt. (Thay vào đó, người ta đã tổ chức tang lễ cấp
nhà nước với một bài diễn văn ca ngợi do người đứng đầu ngành tình báo
quân sự đọc.) Khi đọc đến cuối cuốn sách, chúng tôi thấy nhiều trang ghi
chú và nguồn tài liệu đã không còn. Bảng chỉ mục (index) cũng biến mất.
Nếu còn, chắc nhiều từ trong phần này đã chuyển sang nghĩa hoàn toàn
ngược lại.
“Nhờ trời, hết rồi”, bà bạn tôi nói. “Cuốn này làm tôi bạc cả tóc và bị nhiều cơn ác mộng”.
Bản thảo của Nhà Xuất bản Lao Động đưa ra một lời đánh đố. Trả lời
như thế nào đây? Các bạn cố vấn của tôi đưa ra hai giải pháp. Hoặc là
chôn vùi dự án này, hoặc biến nó thành một vụ trao đổi con tin. Nhã Nam
và Lao Động sẽ được phép xuất bản tác phẩm này, nhưng đổi lại, họ phải
cho tôi bản thảo ban đầu và để tôi xuất bản trên mạng.
Để chuẩn bị cho các cuộc đàm phán, tôi đã xem lại hợp đồng ký với
Nhã Nam ba năm trước đó. Công ty này cam kết sẽ chỉ thực hiện “những
thay đổi nhỏ trong văn bản gốc của tác phẩm”, và những sửa đổi này “sẽ
không làm thay đổi đáng kể ý nghĩa hoặc không làm thay đổi đáng kể văn
bản”. Tôi đề nghị người đại diện của tôi ở New York gửi thông báo cho
đại diện phụ của chúng tôi ở Bangkok, cảnh báo Nhã Nam rằng họ đã vi
phạm hợp đồng vì lấy tác phẩm tuyên truyền thay thế cho bản dịch.
Cùng với tiền bản quyền gửi cho tôi – chậm trễ vì “vô tình quên” –
Nhã Nam bắt đầu trở lại với “những chỗ cắt xén và thay đổi mà không thể
nào làm khác được”. Họ muốn gọi tác phẩm là Điệp viên hoàn hảo,
nhưng bây giờ cô Yến đồng ý trở lại với nhan đề mà ông Long và tôi đã
thỏa thuận. “Việc bản dịch bị kiểm duyệt là những điều hai bên đã thấy
ngay từ đầu”, cô viết cho đại diện của tôi như thế vào tháng 7 năm 2012.
“Mức độ kiểm duyệt có thể gây sốc cho tác giả (cũng như chúng tôi).
Nhưng ở đây chúng tôi thường xuyên gặp những chuyện kiểu như vậy, và
chúng tôi biết hoàn cảnh ở đất nước chúng tôi. Chúng tôi đã tiếp xúc với
7 nhà xuất bản quốc doanh khác nhau, và, cuối cùng, chỉ có Nhà Xuất bản
Lao Động cấp giấy phép xuất bản, kèm theo những đoạn bị cắt và sửa
chữa.”
Việc tôi hủy bỏ hợp đồng xuất bản là “biện pháp giải quyết dễ dàng
nhất”, cô Yến kết luận, nhưng “như thế thì sẽ bất công đối với chúng tôi
và những dự định trung thực của chúng tôi. Chúng tôi sẽ rất thất vọng”,
cô nói.
Những cuộc trao đổi con tin của tôi cũng tiến triển không thuận lợi.
Cô Yến đòi kiểm duyệt cả bản sẽ đăng trên mạng, và bằng cách đó, mở
rộng quyền bá chủ của Việt Nam ra khắp thế giới. Nhưng cuối cùng cô rút
lại, chỉ yêu cầu công bố trên mạng sau khi cuốn sách đã phát hành ở Việt
Nam được 6 tháng. Chúng tôi cũng đồng ý rằng trên trang tác quyền sẽ in
một tuyên bố nói rằng: “Đây là bản dịch một phần tác phẩm The Spy Who Loved Us. Có những đoạn trong tác phẩm này đã bị lược bỏ hoặc viết lại.”
Cuối năm, khi tôi vẫn chưa được nhận bản bông để đọc lại và giấy
phép xuất bản của chúng tôi sắp hết hạn, thì nhận được thư của cô Yến:
“Tại sao ông lại đồng ý làm việc với Nhã Nam, nếu ông không tin tưởng
biên tập viên Việt Nam của ông? Có phải chúng tôi không đáng tin bằng
những người bạn của ông?” Tôi hình dung những chiếc móng tay của cô đang
cào lên bàn phím trong lúc đánh máy. “Chúng tôi không thích nghe ý kiến
của những người ngoại cuộc nữa. Thế là không chuyên nghiệp.”
Tháng 6 năm 2013 cô Yến gửi thư cho tôi, thông báo rằng Nhã Nam vẫn
đang tìm cách giữ giấy phép xuất bản, và họ hy vọng sẽ báo tin vui cho
tôi một ngày không xa. Cô nói thêm rằng những người đọc cuốn sách gần
đây nhất ở Việt Nam tỏ ra “sợ” cho dự án này. Tuần sau tôi được cô Yến
đề nghị “kết bạn” trên Facebook.
(Còn tiếp 3 kì)
Bản tiếng Việt “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam”
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass