Vương Trí Nhàn
Đầu Pháp chính phủ thư tức Thư gửi toàn quyền Beau, Đông Dương chính
trị luận, Thư thất điều … Lâu nay, nói tới Phan Châu Trinh, người ta
thường chỉ được biết các luận văn ấy.
Song, có một tài liệu theo tôi đáng gọi là chìa khóa để đi vào hiện
tượng Phan Châu Trinh, đó là bài viết Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân
Việt Nam (tạm dịch Nước Việt Nam mới sẽ như thế nào sau khi Pháp -- Việt
liên hiệp, dưới đây tôi gọi tắt là Liên hiệp hậu)
Bài này vốn có trong Phan Châu Trinh tuyển tập của Nguyễn Văn Dương,
in ra ở NXB Đà Nẵng 1995; sau được Vĩnh Sính giới thiệu kỹ hơn trong một
bài in trong cuốn sách Từ Đông sang Tây H.2005 và trên mạng Diễn đàn
2007 .
Theo các nhà nghiên cứu trên, Liên hiệp hậu là một bản thảo được khởi
thảo vào khoảng 1910. Nội dung tác phẩm hết sức phong phú, như có đoạn
nói về lịch sử giao thiệp VN với Trung Quốc, lịch sử giao thiệp giữa
nước Nam với nước Pháp; nhưng nhiều phần -- mà là những phần chính có
liên quan tới nội dung chính nêu trong tiêu đề -- chưa hoàn thành.
Nhưng ngay ở dạng như hiện nay thì Liên hiệp hậu vẫn là một văn bản
quý, giúp hậu thế hiểu chính cương đường lối hoạt động của cụ Tây Hồ.
Ngoài ra Liên hiệp hậu cũng có những phần được viết đọc rất thú vị, là
phần ông nói về mình, trong sự phân biệt với Phan Bội Châu.
Khi miêu tả các nhà hoạt động xã hội, các nhà cách mạng được nhiều
người biết tiếng --, các tài liệu ở ta thường chỉ đi vào khuynh hướng
chính trị của người ấy. Phần cá tính bị lảng tránh.
Khi nói cá tính,ý chúng tôi muốn nói tới từ sự xuất thân, quê hương
gia đình, cho tới học vấn cách biểu lộ tình cảm, cách hiểu về ý nghĩa
đời sống, quan niệm về hành động về hạnh phúc của một con người.
Miễn là biết cách phân tích, người ta sẽ thấy cái phần gọi là cá tính này thực ra mang rất nhiều yếu tố xã hội.
Và đó là phương hướng chi phối cụ Tây Hồ khi viết về cụ Sào Nam .
Phan Châu Trinh viết Liên hiệp hậu sau khi ở tù ra. Ở tù sau mấy cuộc
binh biến và dân biến thất bại. Ông lấy bản thân và các đồng chí ra để
phân tích. Với ông, cắt nghĩa các biến động đó, cũng là một cách xác
định lại đường hướng tư tưởng của mình. Người đọc cảm thấy tác giả có
một sự thôi thúc muốn “gọi sự vật bằng cái tên của nó”, tức phải viết ra
bằng được điều mình đã tâm niệm, để trình với lịch sử.
Một điển hình của người cách mạng đầu thể kỷ XX
Sự sáng suốt và chừng mực của Phan Châu Trinh là ở chỗ bao giờ viết
về Phan Bội Châu ông cũng theo lối đề cao chỗ mạnh chỗ khả thủ, để rồi
liền sau đó mới đi vào đào cùng tát cạn nói bằng hết những nhược điểm nó
là chỗ không thể chấp nhận được của đối tượng.
“ Phan Bội Châu là người rất có chí khí có nghị lực, nhẫn nhục dám
làm; có điều tin vào thì không chịu bỏ, dẫu có sấm sét cũng không đổi.
Nay sĩ phu khắp nước chưa ai có thể ví với ông ấy. Tiếc thay học thuật
không rành, thời thế không rõ, thích dùng quyền thuật (ý nói mánh lới
mưu mẹo -- VTN chú), tự dối mình dối người, ngoan cố không đổi. Lớn lời
không ai bì, hãm quốc dân vào đất chết cam chịu tiếng ác mà không tự
biết (Nguyễn Văn Dương Phan Châu Trinh tuyển tập, sách đã dẫn ở trên, tr
530)
Ở một đọan dưới:
“Ông ấy là người khẳng khái dám làm, không kể thân mình, sức tự tin
rất sâu, hễ cho là phải thì sống chết không đổi …Nhưng ông ấy cậy sức
làm bậy, sẵn lòng giết người cố chấp theo ý mình, xem người đều không
bằng ta (tlđd, tr 542).
Có mấy điều Phan Châu Trinh hẳn đã tự lưu ý khi viết những đoạn này.
Thứ nhất luôn luôn nhấn mạnh rằng ông rất thân, rất quyến luyến Phan Bội Châu.
Thứ nhất luôn luôn nhấn mạnh rằng ông rất thân, rất quyến luyến Phan Bội Châu.
Thứ hai theo Phan Châu Trinh, những đức tính trên, cả hay lẫn dở,
cũng như mọi đức tính khác của Phan Bội Châu đều là tiêu biểu cho dân
VN.
Đã có một sự giải phóng về tư tưởng. Tác giả vượt lên những thói
thường của những người cùng hoạt động giữ ý với nhau, cốt “dĩ hòa vi
quý“ xuê xoa che giấu cho nhau.
Chẳng những thế, ông còn biết mang lại cho nhận thức của mình một ý
nghĩa có liên quan tới cả xã hội. Khi đã hiểu “có nói gì về Phan Bội
Châu cũng là vì cái chung”, ông càng tự tin trên đường tìm tới bản chất
của hiện tượng.
Ông gọi Phan Bội Châu là ngông cuồng.
Ông gọi Phan Bội Châu là ngông cuồng.
Ông nói thẳng Phan Bội Châu không hiểu gì về thời thế, “không có
phương châm gì“, hành động thì “chạy bậy ra nước ngoài”, phát ngôn thì
“bậy bạ” ( tr. 514)
Ông đưa ra một sự thực -- Phan Bội Châu đọc sách rất ít, nhất là
những sách mới. Khi miêu tả rằng có nhiều việc Phan Bội Châu biết rằng
thất bại vẫn làm, ông phanh phui động cơ hành động của Phan Bội Châu là
“lợi dụng chỗ kém của quốc dân để làm rõ cái hay của mình”
Phi Phan Châu Trinh thì không ai dám nói rằng trong việc xúi người
khác xông lên, đẩy người khác vào nơi chết chóc, Phan Bội Châu đã hiện
ra như một người tàn ác “đến giết hết cả giống nòi mà chưa thôi” (tr
532). Đây là một điều Phan Sào Nam thật không ngờ, vì không bao giờ
đương sự có khả năng tự tách ra, đứng ngoài khách quan mà xét đoán mình,
luận tội mình.
Khác biệt đến đối lập
Nghiên cứu lịch sử VN thế kỷ XX cũng như cả các thế kỷ trước, người
ta dễ nhận thấy một sự thực. Người Việt ta thích làm hơn thích nghĩ. Xã
hội ta được thúc đẩy không phải bởi các nhà tư tưởng mà bởi các nhà hành
động. Dù có thất bại -- Phan Bội Châu là một ví dụ -- thì loại người
hành động này cũng vẫn được ca tụng. Và các nhà làm sử hôm nay cũng đã
viết sử theo hướng đó.
Nhưng với tư cách những con người của cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, các thế hệ trẻ hơn phải có cái nhìn khác.
Trong khi trở lại với các nhân vật lịch sử, chúng ta không thể chỉ
biết chăm chăm nói theo người xưa, mà phải có cách đánh giá của mình.
Với những con người hành động xốc nổi, thực tế là hành động không cần
suy nghĩ, hay chỉ biết suy nghĩ theo kiểu cũ, phải chỉ ra được thất bại
là đương nhiên.
Với những thành công, phải phân biệt đó chỉ là những thành công tạm thời hay là những thành công có ý nghĩa lâu dài.
Tiếp theo thành công tạm thời là những tai họa. Chỉ những thành công
theo đúng những quy luật của lịch sử hiện đại mới có khả năng mở ra một
giai đoạn mới trong quá trình phát triển của dân tộc.
May mắn thay là Phan Châu Trinh đã bắt đầu suy nghĩ theo lối này. Cả
trong cách nhìn người lẫn cách quan niệm về hướng đi tới của đất nước,
ông đều đạt tới tầm tư duy hiện đại.
Ông từng so sánh mình và nhân vật song đôi của mình – mà ông gọi là hai người thuộc hai đảng -- , ở từng việc một.
“Bội Châu không xét thời thế, không kể lợi hại mà chủ trương bài Pháp thì thủ đoạn không thể không do bạo động mà ra.
Bạo động ắt thất bại và ắt chết. Dân biết cái thế ắt thất bại ắt chết
thì ắt không theo. Cho nên[ phải tính chuyện -- VTN thêm cho lọn nghĩa ]
lợi dụng cái ngu của dân, lợi dụng dân không có đường sống [ mà rủ rê
lôi kéo họ].
Đã lợi dụng dân ngu không có đường sống, cho nên không nói khai trí
trị sinh; cho nên hội học hội diễn thuyết hội buôn không cần lập, sợ
rằng dân khôn, dân không có đường sống thì ắt không nghe lời ông ấy.
Đã chủ trương bạo động thì cái thế lợi dụng phải mờ ám, cho nên sự
vận động của đảng ấy đều là làm giấu, là rủ rê các kẻ ngu trong dân để
lấy tiền mà người và việc đều không xuất hiện cho nên xét nó khó.
Vả lại đảng ấy đã lợi dụng cái ngu của dân mà thủ đoạn lợi dụng mờ ám
cho nên kẻ theo phần nhiều đều là bọn du đãng, thấy lợi quên chết. Còn
trung lưu trong xã hội thì không có [ có lẽ là không quá – VTN chú] một
vài người, mà đều là người ngoan cố, vô học, mờ ám vì thời cuộc, không
đáng đếm xỉa đến.
Còn về phần mình
Tôi đã chủ trương cậy Pháp, thì thủ đoạn không thể không do tự trị mà
ra.. Tự trị cũng chẳng là việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng chết. Nếu
không phải là kẻ chí sĩ yêu nước không kể sống chết lại hiểu rõ thời thế
thì không dám làm theo.
Cho nên lợi cho trí dân, lợi cho dân có đường sống.
Đã lợi trí, lợi có đường sống cho nên không thể không nói khai trí
trị sinh; cho nên cái thế là không thể không lập nhiều hội học, hội diễn
thuyết, hội buôn.
Bởi vì trông dân có trí, dân có đường sống, sau đó tôi có nói ra, họ
mới nghe theo. Cho nên cái chủ nghĩa kia đã chủ trương tự trị thì thế
lợi dụng phải rõ ràng, cho nên sự vận động của đảng tôi toàn là tụ tập
dân chúng, đường đường chính chính diễn thuyết, họp chí sĩ, khảo cứu
chính trị thời thế, ăn to nói lớn, người và việc ai nấy đều thấy, cho
nên xét nó rất dễ. Chủ nghĩa của tôi đã lợi dụng dân trí, thủ đoạn lợi
dụng rõ ràng cho nên những kẻ nghe theo đều là người đọc sách biết lẽ,
vì nước quên mình … “ ( tlđd, tr. 544-545)
Một bên thì duy ý chí, cốt làm lấy được điều muốn làm, “lấy cứu cánh
biện minh cho phương tiện”, đi tới nhiều chỗ mờ ám, và chỉ khai thác
được cái phần kém cỏi trong cộng đồng cũng như trong mỗi người. Bên kia
thì đàng hoàng minh bạch, hướng về trí tuệ về ánh sáng, đặt ra yêu cầu
cao với những người dân , khi họ chưa hiểu quyết không manh động.
Tại sao cụ Phan Sào Nam được các nhà sử học hiện thời ca tụng trong khi cụ Tây Hồ bị phê phán?
Giả sử bây giờ tôi kê ra những đặc tính để làm nên tính cách một nhà hoạt động xã hội ở ta:
--Yêu nước thương nòi, có chí khí có nghị lực, dám hành động nhưng
lười đọc sách, không chịu suy nghĩ về các vấn đề lớn của xã hội, chỉ
nghĩ về những hiệu quả trước mắt.
-- Không phải là giỏi lý thuyết mà chỉ tài về phương diện sách động, tức dùng khẩu thuật để mê hoặc lòng người
-- Sẵn sàng xô đẩy đám đông vào chỗ chết, cốt đạt đến mục đích của
mình. Nếu người ta có chết thì lại xụt xịt thương khóc, gọi người ta là
anh hùng, lấy đó làm tấm gương cho người khác noi theo.
và bảo rằng đó chính là chân dung cách mạng đầu thế kỷ XX, chắc nhiều người sẽ cho là tôi chỉ có cách nhìn phiến diện.
Song sự thực – như trên các bạn vừa đọc -- đó là những nét chủ yếu
làm nên chân dung một người chúng ta hết sức yêu kính là Phan Bội Châu
qua cách cảm nhận của một người chúng ta cũng hết sức yêu kính là Phan
Châu Trinh.
Trong con mắt của các sử gia Hà Nội, Phan Bội Châu lâu nay được đặc
biệt ca ngợi, còn Phan Châu Trinh thì bị phê phán rất nhiều. Phê là cải
lương, là ngây thơ quá tin tưởng ở thực dân Pháp. Từ ngòi bút của những
sử gia có nghiên cứu hơn một chút, thì di sản của Phan Châu Trinh không
dùng được vì cải lương thỏa hiệp, đặt nặng việc nâng cao dân trí…ngược
với chủ trương của cách mạng về sau là bạo lực.
Nay tôi mới hiểu thêm cái chính là các nhà cách mạng về sau, rất gần
với con người Phan Bội Châu mà trên đây Phan Châu Trinh đã miêu tả. Còn
Phan Châu Trinh thì hoàn toàn là một típ người khác. Nhưng để chứng minh
được nhận xét trên một cách thuyết phục, còn phải nghiên cứu nhiều.
Một bài thơ minh họa
Trong đoạn văn miêu tả Phan Bội Châu của Phan Châu Trinh nói trên, có một khía cạnh cần dừng lại kỹ.
Đó là phát hiện của cụ Tây Hồ về cái cách của cụ Sào Nam “lợi dụng
chỗ kém của quốc dân để làm rõ cái hay của mình”, cụ thể là xúi người
khác xông lên, đẩy người khác vào nơi chết chóc. Do đó, khách quan mà
xét, có thể bảo Phan Bội Châu là một người tàn ác dám nhân danh mục đích
cao cả làm những việc hao người tốn của tai hại tới mức “đến giết hết
cả giống nòi mà chưa thôi”.
Có thể gọi cái chất mà cụ Tây Hồ nhìn thấy ở cụ Sào Nam là tài sách
động của nhà cách mạng khi đi vào thực tế để vận động quần chúng.
Điều này nhiều người đã biết, nhưng chỉ Phan Châu Trinh mới nói, mới
coi là quan trọng cần phải nói. Đương thời, Phan Bội Châu nổi tiếng với
khả năng dùng tình cảm để lôi cuốn người khác hoạt động theo ý đồ của
mình. Khi họ chết, ông sẵn sàng viết ra những bài ca tụng công lao của
họ và lấy đó làm đủ, vừa xong người này,lại lao vào những cuộc vận động
lôi cuốn người khác.
Không phải tới thời hiện đại, người ta mới đặt vấn đề này.
Trong Luận ngữ ở chương XIII ( mang tên Tử Lộ) có đoạn 30.
“Tử viết : Dĩ bất giáo dân chiến, thị vị khí chi.”
Nguyễn Hiến Lê đã dịch là Khổng tử bảo: Đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc tức là bỏ dân (Luận ngữ bản của nhà Văn học, 1995, tr 227.
Nguyễn Hiến Lê đã dịch là Khổng tử bảo: Đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc tức là bỏ dân (Luận ngữ bản của nhà Văn học, 1995, tr 227.
Hoàng Văn Thư ( Tứ thư, nxb Văn hóa thông tin, 2003, tr 109), dịch hơi khác đi một chút nhưng theo tôi là rõ hơn:
“Thầy nói không dạy dân mà bắt dân đi đánh giặc là đưa họ đến chỗ chết mà thôi.”
Cũng không phải chỉ ở Việt Nam người ta mới thấy có hiện tượng này.
Trên báo Văn nghệ khoảng 1967-68, Xuân Diệu đã dịch và cho in bài thơ
sau đây -- tôi không nhớ chính xác số báo,không tra cứu được, chỉ chép
lại từ sổ tay.
Có lẽ vì nội dung của nó hơi lạc lõng so với tinh thần thời đại mà Xuân Diệu về sau không lấy lại để đưa vào sách nào cả.
Nhưng tôi thấy nên giới thiệu lại với bạn đọc.
Bài thơ như là tiếng nói của những người trong chiến tranh đã lao vào
chỗ chết mà không được chuẩn bị tương xứng, chẳng qua họ chỉ hành động
theo lời khuyến nghị của những nhà chỉ huy giỏi sách động. Bảo họ là nạn
nhân của những người chỉ huy ấy cũng không sai.
Người anh hùng nói
Felik Pollak nhà thơ Mỹ- 1909-1987
Felik Pollak nhà thơ Mỹ- 1909-1987
Tôi đã không chịu đi
Chúng bắt tôi vào quân dịch
Chúng bắt tôi vào quân dịch
Tôi đã không muốn chết
Chúng gọi tôi là nhát hèn
Chúng gọi tôi là nhát hèn
Tôi đã tìm cách trốn
Chúng mang tôi ra tòa án binh
Chúng mang tôi ra tòa án binh
Tôi đã không nổ súng
Chúng bảo tôi là không có thớ
Chúng bảo tôi là không có thớ
Chúng mở cuộc xuất kích
Một viên đạn ngấu nát ruột tôi
Một viên đạn ngấu nát ruột tôi
Tôi đau quá khóc lên
Chúng đưa tôi vào hầm trú ẩn
Chúng đưa tôi vào hầm trú ẩn
Trong hầm tôi đã chết
Chúng lặng lẽ chào tôi
Chúng lặng lẽ chào tôi
Chúng đã gạch tên tôi
Và chôn tôi dưới một cây thánh giá
Và chôn tôi dưới một cây thánh giá
Chúng đọc điếu văn trong thành phố tôi sinh
Tôi không thể kêu lên là chúng nói dối
Tôi không thể kêu lên là chúng nói dối
Chúng nói tôi đã cống hiến đời mình
Tôi thì cố mà giữ lại
Tôi thì cố mà giữ lại
Chúng nói chúng tự hào về tôi
Tôi thì đã xấu xa đi vì chúng
Tôi thì đã xấu xa đi vì chúng
Tôi đã muốn sống còn
Chúng gọi tôi hèn nhát
Chúng gọi tôi hèn nhát
Tôi đã chết hèn nhát
Chúng gọi tôi anh hùng
Chúng gọi tôi anh hùng
Nguyên là bài Cụ Sào Nam trong cái nhìn cụ Tây Hồ, một chìa khóa để đi vào hiện tượng Phan Châu Trinh
Đã in trên blog này 06-04-2011, mới bổ sung hai đoạn cuối