Phạm Thị Hoài
Sự khó chịu trong sự thật
Câu hỏi đầu tiên nên trả lời trong vụ “Rừng Sát” là: bài phóng sự của
Thomas A. Bass về kiểm duyệt tại Việt Nam có trình bày đúng thực trạng
đó không? Theo tôi, đúng. Và hay. Chân dung truyền thần sinh động của
ông về bộ mặt kiểm duyệt ở Việt Nam thật đến mức khó chịu. Nó bao quát
hiện tượng kiểm duyệt, khắc họa bản chất của kiểm duyệt, phác họa cấu
trúc và các hình thái của kiểm duyệt, tìm hiểu bối cảnh của kiểm duyệt
và miêu tả chi tiết kiểm duyệt diễn ra như thế nào. Nó là một áng văn
hấp dẫn, một tư liệu giá trị. Nếu tôi không quá nhầm thì công luận phải
mong muốn nó được phổ biến. Song điều phiền toái nằm ngay trong giá trị
của bài phóng sự.
Tác giả, như thông lệ của phóng viên điều tra phương Tây, đã không
dùng nút bấm điều khiển từ xa, không tổng hợp và lọc tin từ bàn phím,
không nghe qua tai, nhìn qua mắt và phát ngôn qua miệng người khác, mà
tuân thủ đạo đức hay điều răn hàng đầu của nghề báo: ông không bịa ra
một bài phóng sự mà tiếp cận người thật, việc thật, và lấy trường hợp
thật của chính mình làm chất liệu.
Chuẩn mực đầu tiên này của sự thật có vẻ lạ lùng với báo chí Việt
Nam. Để lấy một ví dụ: khi “em bé đuốc sống” Lê Văn Tám đã được người
trong cuộc, một nhân chứng, một giáo sư sử học đầy uy tín chính thống, tiết lộ là nhân vật hư cấu để tuyên truyền thì nhà báo Trần Trọng Tân, người từng đứng đầu ngành văn hóa tư tưởng của đất nước, vẫn khẳng định
em bé này là có thật, vì một số sách báo sau này đã thuật lại sự kiện
này. Tôi không biết có ai sẵn sàng trả tiền mua tin của Thông tấn xã
Việt Nam hay không, song sở dĩ các hãng tin nước ngoài như Reuters, AP,
AFP, UPI, DPA…, hầu hết của phương Tây, bán được loại hàng đặc biệt này
vì bên cạnh những ưu thế khác, trước hết là giá trị xác thực của món
hàng được đảm bảo: người thật, việc thật, phóng viên thật. Bán một chiếc
túi nhái Louis Vuitton rất dễ; cả giá trị sử dụng lẫn giá trị thẩm mĩ
của nó có khi còn cao hơn của hàng xịn, vấn đề chỉ còn là nguồn gốc toát
ra từ chính người dùng; nhưng bán tin fake Reuters thì không thể, giá trị sử dụng của nó là zero. Trong hai tác phẩm đáng chú ý nhất hai năm vừa qua, Bên thắng cuộc của Huy Đức và Đèn cù
của Trần Đĩnh, chúng ta có thể tìm được vô số ví dụ về việc toàn bộ
guồng máy tuyên truyền của Việt Nam đã hư cấu, bịa đặt, giả mạo, bóp
méo, lũng đoạn, dụng ý gây nhiễu, định hướng, kiểm soát và kiểm duyệt
thông tin một cách toàn diện và hệ thống như thế nào. Bài báo, “phát
pháo mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất” về vụ đấu bà Nguyễn Thị Năm – Cát
Hanh Long, do chính ông Trần Đĩnh viết, “ký một cái tên ú ớ không còn
nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ”, như ông cho biết. Song bản
thân ông không dự đấu tố. Để xào ra một “tường thuật”, ông “khai thác”
người cấp dưỡng của ông Trường Chinh, theo sự “pha phách thêm nếm” của
đồng chí phóng viên đầu bếp này, để rồi “phối hợp” với nó, chúng ta có
bài “Địa chủ ác ghê” của một CB nổi tiếng. Ít nhất thì ông Hồ đã “bịt
râu đến dự một buổi”, nhưng chắc chắn không phải vì tuân thủ đạo đức báo
chí.
Và để so sánh: báo chí Đức ồn lên một dạo vì một vụ tai tiếng. Bỉnh bút của tờ Süddeutsche Zeitung,
ông Heribert Prantl, một trọng lượng lớn trong làng báo Đức, bị chỉ
trích vì trong một bài chân dung về người đứng đầu Tòa Bảo hiến Liên
bang, ông miêu tả cảnh thực khách của vị chánh án được phân công làm
bếp, như thể ông đã trực tiếp chứng kiến, trong khi ông chỉ nghe kể lại
chứ chưa bao giờ ngồi trong căn bếp ấy. Tờ báo phải đăng đính chính. Một
nhà báo khác, ông René Pfister của tờ Spiegel, được trao một
giải thưởng báo chí danh giá cho một bài viết về Thống đốc bang Bayern,
trong đó có đoạn miêu tả sưu tập mô hình tàu hỏa trong tầng hầm nhà vị
chính khách này. Ngay sau đó ông bị tước giải thưởng vì chỉ biết đến sưu
tập đó qua nguồn khác, song lại quên nêu rõ, khiến độc giả tưởng ông đã
đích thân đặt chân xuống tầng hầm này.
Nếu cũng áp dụng những chuẩn mực như vậy, báo chí Việt Nam còn lại
gì? Cần nói ngay rằng báo chí độc lập, thiếu hẳn điều kiện – tài chính,
nhân sự, bộ máy tổ chức – và quyền tự do tiếp cận các sự kiện, đành giới
hạn mình trong chức năng bình luận; dễ hiểu rằng nhiều nhận định nghiêm
túc xuất hiện ở “lề trái” lại vô giá trị, vì dựa trên các thông tin hư
cấu hoặc đã xào nấu nát bét nguồn gốc trong những chiếc vạc đại táo của
các đầu bếp quốc doanh. Đó là chưa kể vô vàn những diễn đàn nặc danh mà tọa độ chính trị còn đáng ngờ hơn cả các thông tin được những người ngồi trong bóng tối lôi ra từ tay áo.
Trở lại với ông nhà báo Mỹ. Ông có thể kể câu chuyện hoàn toàn thật
của mình, do chính mình trải qua, đích thân tai nghe mắt thấy, bằng cách
giấu tên các nhân vật thật trong đó không? Tôi cho là không. Vì sao? Vì
chỉ giấu họ trong những cái tên hư cấu là vô nghĩa, không cần là người
trong ngành xuất bản ở Việt Nam cũng dễ dàng xác định who is who
trong trường hợp này. Thao tác giấu tên bắt buộc phải kéo theo một loạt
các hư cấu khác: ông phải tưởng tượng ra một nhà xuất bản khác, cuốn
sách bị kiểm duyệt của ông phải mang một cái tên khác và tất nhiên một
nội dung khác, bản thân ông cũng cần xuất hiện với một bút danh khác, và
toàn bộ câu chuyện nên xảy ra ở một xứ tưởng tượng, phi thời đại, tốt
nhất là ở Macondo. Nó sẽ không còn là một phóng sự điều tra mà trở thành
một roman à clef. Tác phẩm được coi là roman à clef nổi tiếng, tiểu thuyết Mephisto
của Klaus Mann – con trai Thomas Mann – là một ví dụ tốt. Dù nhân vật
chính mang một cái tên hoàn toàn khác và được đặt trong những tình tiết
hư cấu, nhưng bối cảnh là nước Đức thời Quốc xã không thay đổi, nên
người đọc vẫn dễ dàng nhận ra đó là diễn viên Gustaf Gründgens, anh rể
cũ của tác giả, một nghệ sĩ có tài, nhiều tham vọng, leo đến đỉnh cao sự
nghiệp sân khấu của mình nhờ thỏa hiệp với chính quyền Hitler. Song
Thomas A. Bass không có ý định viết tiểu thuyết. Tác phẩm của ông là một
phóng sự người thật việc thật, thể loại đặc biệt, được coi là đỉnh cao
và niềm tự hào của báo chí phương Tây.
Để lấy tiếp một ví dụ – hiển nhiên không phải để so sánh sự kiện,
một sự kiện nằm ngoài khả năng hình dung của chúng ta – mà để hiểu, khi
được gắn với những nhân vật cụ thể, có thực và có thể kiểm chứng, thì sự
thật bỗng hiện ra trong toàn bộ sự khó chịu của nó như thế nào: Trước
khi Seymour Hersh bám lấy viên trung úy William Calley Jr. để anh ta,
chuếnh choáng sau một lượng bia kha khá, kể chuyện mình đã thực hiện
lệnh search and destroy, tìm và diệt, tại làng Mỹ Lai ngày 16/3/1968, đúng tinh thần Big Count,
càng nhiều xác địch càng vẻ vang, của Chiến dịch Phượng Hoàng ở cao
điểm của Chiến tranh Việt Nam; trước khi nhà báo này cày tung nước Mỹ để
tìm ra từng nhân chứng, với người thật, tên thật, những người lính
trong quân đội Hoa Kỳ đã tham gia hoặc tận mắt chứng kiến vụ thảm sát
ấy, với 504 xác người già, phụ nữ và trẻ em, thì công luận Hoa Kỳ không
phải là không biết đến vai trò đáng ngờ của quân đội Hoa Kỳ trong những
cái được gọi là “tổn thất ngoài dự kiến” trong Chiến tranh Việt Nam.
Song khi cả nạn nhân và thủ phạm đều đứng khuất trong chốn no name thì sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó. Phải đến khi phóng sự của Hersh
xuất hiện, sau gần một năm ngược xuôi không nơi nào muốn công bố, cái
sự thật ấy bỗng có những gương mặt thật, những chân dung thật, những cái
tên thật, và mới thật sự trở thành khó chịu, sự khó chịu dẫn đến phong
trào phản chiến, rồi góp phần đáng kể vào việc chấm dứt sự tham dự của
Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
Câu hỏi bên trên cũng có thể diễn đạt theo cách khác: Thomas A. Bass
có cần, thậm chí có tránh nhiệm giấu tên các nhân vật thật trong câu
chuyện thật của mình không? Một lần nữa, theo tôi là không. Song để
thuyết phục nhiều người đã quen với “hoàn cảnh Việt Nam”, nơi vị nguyên
thủ khai quốc dùng bút danh CB hay X.Y.Z để viết những bài báo agitprop kích
động hoặc những mẩu chuyện đả kích bỗ bã, và đương kim Chủ tịch nước
gọi đương kim Thủ tướng là “đồng chí X”, thì không dễ. Nhưng muốn thế
nào, ít nhất từ hôm qua độc giả đã không còn là trẻ con, và hôm nay các
nhân vật được đề cập còn chưa là những Lord Voldemort để tác giả “Rừng
Sát” cần gọi nhà sử học kiêm đại biểu Quốc hội trong bài viết của mình
là “ông Y” hay vị giám đốc công ti xuất bản Nhã Nam là “ông Z”. Họ là
các nhân vật có tên tuổi đàng hoàng của giới chính trị, hàn lâm, truyền
thông và xuất bản.
Ở phương Tây hiện tại, chẳng những ban lãnh đạo mà nhân viên của các
nhà xuất bản, phóng viên các hãng truyền thông và báo chí, giới hàn lâm
trong các trường đại học và viện nghiên cứu, những người làm việc trong
các hãng quảng cáo và tổ chức sự kiện xã hội, trong các thư viện và bảo
tàng…, đều công khai danh tính, thậm chí kèm cả ảnh và địa chỉ email
cho bất kì ai muốn liên lạc. Công luận có quyền biết những nhân vật đang
hàng ngày đào tạo, rèn rũa, tác động đến ý thức và dư luận xã hội là
ai. Không phải chỉ chính khách và It Girl mà nhóm nói trên cũng được coi là những nhân vật ít nhiều đứng trong công luận, những public figure
từ khía cạnh đặc thù của công việc họ làm. Phần lớn trong số họ đều có
trang cá nhân chính thức, với đầy đủ tiểu sử, bước đường sự nghiệp,
thành tích, tác phẩm, và thường kèm kết nối công khai trên các mạng xã
hội.
Ở Việt Nam, nơi các nhà lãnh đạo đất nước được công khai đại diện bằng một hệ thống đồ sộ các trang mạng nặc danh vui vẻ truyền bá cuốn Mein Kampf
như một “tác phẩm hấp dẫn” với những hình ảnh máu lửa giật gân, tên
tuổi tự chúng đã sống những số phận khác hẳn. Công ti xuất bản Nhã Nam có một website,
nhưng ở đó tuyệt đối không có một cái tên nào của những người nào chịu
trách nhiệm. (Ở Đức chẳng hạn, luật pháp bắt buộc các doanh nghiệp – dĩ
nhiên một công ti xuất bản là một doanh nghiệp – không những công khai
tên các nhân sự chịu trách nhiệm, mà hàng loạt thông tin khác, kể cả mã
số thuế doanh thu và mã số doanh nghiệp trên trang nhà.) Còn Nhà xuất
bản Hồng Đức, cũng được nhắc tới trong vụ “Rừng Sát”, thì tồn tại kín
đáo ngoài thời đại internet. Song không riêng gì họ. 99 % những cái tên
kí dưới hàng chục ngàn bài báo và bản tin hàng ngày đăng trên hàng trăm
tờ báo ở Việt Nam thực ra là thừa. Chúng vô nghĩa, vì không khác gì vô
danh khi không công khai gắn với một con người thật, tên tuổi thật.
Chúng ta đã trải qua một chặng đường dài. Cột cây số đầu tiên cắm
bảng “Đừng nghĩ”. Đi hết ba thế hệ mới gặp bảng “Nghĩ thì nghĩ, miễn
đừng nói”. Đến đây tốc độ có vẻ cao hơn, chỉ một thế hệ sau đã đến cây
số “Nói thì nói, miễn đừng nêu tên” và đi thêm một chút thì gặp tấm bảng
khổng lồ “Đừng hành động”. Song một người Việt điển hình hôm nay vẫn là
một người Việt dùng vô số nickname và ngại nêu danh tính thật.
Bạn cứ thử gọi điện đến một tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội… Ở
phương Tây, lời đầu tiên mà người bên kia đường dây nói ra là tên mình,
như điều đương nhiên nhất trần đời. Ở Việt Nam, đó là điều cuối cùng mà
người ta muốn tiết lộ, như bí mật lớn nhất nhân gian. Dĩ nhiên nỗi e
ngại này có nguồn gốc bất hạnh của nó, song nó cũng rất tiện dụng để làm
cái cớ, biện minh cho tình trạng vô danh của trách nhiệm. No name là môi trường giết chết những thương hiệu khả tín, nhưng là chốn an toàn cho những tầm vóc thấp chốt ở vị trí cao. No name, như đã nói ở trên, là nơi sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó.
Ông nhà báo Mỹ vác cái bản thảo bị bằm vặp của mình, nhằm thẳng quả
bom kiểm duyệt xông tới, sau khi mon men ở vòng ngoài. Chui hẳn vào bụng
nó chắc ông cũng dám lắm, nhà báo nước ngoài không có gì để mất ngoài
cái story của họ, nhưng vòng sâu nhất mà ông có thể tiếp cận là
chỗ đứng của những người gác bom, những người vạch cho ông bằng bút đỏ,
đâu là ranh giới cuối cùng. Trong cái story của ông, họ là
những nhân vật chính mà tên tuổi thật, như dấu chấm tất yếu trên chữ i,
khiến câu chuyện ấy không thể thật hơn. Song sự kinh ngạc từ phía độc
giả Việt Nam cho thấy, cú sốc văn hóa Việt-Mỹ đã hoàn hảo. Như cái tên
Tố Hữu trong cuốn sách của ông bị các nhà kiểm duyệt viết tắt – một cách
lố bịch và vô nghĩa – thành T.H, có lẽ ông phải tự kiểm duyệt tên các
nhân vật trong bài phóng sự của mình? Ông sẽ có khá nhiều lựa chọn: CB,
T.H, X, hoặc XYZ. Muốn kể một câu chuyện về kiểm duyệt, trước hết bạn
hãy tự kiểm duyệt. Chào mừng bạn đến với đất nước của hài hước, chúng
tôi đơn giản là Việt Nam!
Vâng, đó là cố hương của tôi, một nhà văn viết tiếng Việt, lần cuối
cùng được xuất bản trong nước là 19 năm trước, 1995, một tập truyện ngắn
bị đình chỉ ngay sau khi phát hành. Tám năm sau, lần cuối cùng tôi được
về thăm nhà, ông Trịnh Đình Khôi, chuyên viên cao cấp phụ trách mảng
văn hóa văn nghệ thuộc Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, nay là Ban Tuyên
giáo Trung ương, khẳng định với tôi rằng ông không liên quan đến cái
lệnh cấm đó, thậm chí ông đã bênh vực cuốn sách của tôi trong cuộc họp
phê bình nhà xuất bản. Ai cấm, ông không biết. Nhưng ông không biết, thì
ai biết? Cái đó thì phải hỏi bên Bộ, ông nói. Tức bên chính phủ. Cấu
trúc hai nhà nước trong một nhà nước của Việt Nam, bên này Ban, bên kia
Bộ, quả là một sáng kiến vĩ đại. Chúng ta đều trở thành những con lắc,
chóng mặt giữa hai bờ quyền lực, và một giây nào đó chợt bừng tỉnh để
ngay sau đó lại trở về quán tính chao đảo thì gần ba phần tư thế kỉ đã
trôi qua.
Ngồi trong căn phòng tuềnh toàng của Ban ở một biệt thự Pháp chỉ còn
cái xác nhưng vẫn giữ vẻ khang trang đường bệ so với các kiến trúc của
người Việt, cách Lăng Hồ Chủ tịch không đầy một cây số, với bộ bàn ghế
rẻ tiền, bộ ấm chén cáu bẩn cùng chiếc bô nhựa màu đỏ đầy ắp bã trà, một
trong những vật dụng ám ảnh tôi nhất trong mọi phòng tiếp khách của các
cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương thuở đó, tôi hoàn toàn
tin rằng ông chuyên viên tư tưởng thành thật. Cũng thành thật như thế, ở
một tầm khác, là người đứng đầu ngành tư tưởng văn hóa của đất nước,
ông Trưởng Ban, Ủy viên Bộ Chính trị, một nhà thơ, người đã phá mọi kỉ
lục cấm sách của các bậc tiền nhiệm, song với một điểm son là sách tuy
bị đình chỉ nhưng tác giả bình an. Song cả ông Nguyễn Khoa Điềm dường
như cũng không liên quan gì đến cuốn sách bị cấm của tôi. Nhận chén trà
từ tay người phục vụ – hay phải gọi là người thư kí? – mang tới, tôi
không thấy chiếc bô nhựa màu đỏ trong phòng tiếp khách bề thế hơn nhiều
của ông, ghế bọc giả da, nhưng hơi thở của quyền lực ở đây không ồn ào,
chỉ lạnh lẽo. Ông nhắc đến những bài thơ thuở nào của tôi mà chính tôi
không còn nhớ, mấy trăm bài thơ đầu tay tôi đã đốt sạch để không bao giờ
còn bị môn thể thao đá cầu chữ nghĩa trong nghệ thuật này ở Việt Nam
cám dỗ. Chúng tôi trò chuyện về talawas, trang mạng do tôi phụ trách lúc đó. Ông gọi nó là một cửa sổ nhìn ra thế giới và quan tâm tới giải thưởng văn chương mang tên Bùi Giáng mà tôi từng đề nghị. Song sự thân ái giữa người cầm bút và người cầm bút đó không ngăn cản việc sáu tháng sau, talawas
bị chặn, các biên tập viên ở Việt Nam lần lượt bị công an triệu tập.
Cha mẹ tôi, gần đất xa trời, cũng phải lập cập lên “làm việc” với an
ninh. “Nhờ hai cụ nhắn với chị Hoài, chắc chị ấy cũng muốn về thăm gia
đình chứ”, Stasi Việt Nam ngọt ngào tiễn cha mẹ tôi ra về.
Khi tôi ra khỏi dinh thự của Văn phòng Trung ương Đảng do người Pháp
để lại, trời đã tối, nhưng vẫn còn những cán bộ cởi trần mặc quần đùi
vờn bóng bàn ở sân. Bây giờ, mười một năm sau, chắc họ chơi golf.
Bàn ghế chắc đã thay bằng cái gì khảm trai, cái gì gỗ gụ, như cái thẩm
mĩ búa liềm rồng phượng của đất nước này đòi hỏi. Nhưng chiếc bô nhựa
đỏ, tôi tin là nó bất diệt. Nó vẫn còn. Còn nguyên như khu rừng nhiệt
đới của kiểm duyệt. Lạc trong đó, bạn sẽ đầy lòng cảm ơn người kiểm lâm
đã cứu bạn khỏi bị hùm xé xác, bằng cách vạch cho bạn một đường thoát
qua khu đầm lầy. Lún đến đâu, tùy vào bạn. Tôi ngoái lại nhìn một lần
nữa cái trụ sở của quyền lực ấy và nhẹ người, tôi sẽ không phải gieo một
con xúc xắc nào trong ván mạt chược lớn, cuộc chơi của các nạn nhân, ân
nhân, thủ phạm và đồng phạm đó nữa. Lời của chàng thanh niên 25 tuổi
Karl Marx viết năm 1843 cho người cộng sự Arnold Ruge
khi quyết định rời khỏi nước Đức, bắt đầu cuộc đời lưu vong tròn 40 năm
của mình, vẳng lên trong tôi như một bằng chứng nữa, rằng lịch sử dành
cho mọi người Việt – trong đó có tôi, người đang sống, đến nay vừa tròn
20 năm, ở Đức – một quy chế hài hước đặc cách. Ông viết: “Tôi đã mệt mỏi
vì sự thớ lợ, ngu xuẩn, vì công quyền thô thiển, vì thói bợ đỡ, luồn
cúi, quay lưng của chúng ta và vì tệ chẻ chữ.” Lí do cho sự mệt mỏi đó
là chế độ kiểm duyệt tại Đức mà nạn nhân là tờ Rheinische Zeitung do Marx chủ biên, với loạt bài nổi tiếng của ông bàn về tự do báo chí và xuất bản.
(Còn tiếp)
© 2014 pro&contra
Bài liên quan:
- Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
- Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
- Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
- Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
- Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
- Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (4)
- Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
- Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
- Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin
- Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1)