Nguyễn Đình Cống
Trong xã hội Việt Nam hiện nay nhiều tệ nạn như tham nhũng, lãng phí,
cửa quyền, mua quan bán tước, gian dối, đạo đức và giáo dục xuống cấp,
sự gia tăng cái ác, lạm phát, ô nhiễm và phá hoại môi trường, oan ức và
khiếu kiện kéo dài, mất tự do dân chủ, v.v. càng ngày càng tăng, càng
chống càng phát triển. Điều đó có nguyên nhân sâu xa từ thể chế, từ
chính sách và sự lãnh đạo, quản lý của chính quyền. Đa số người dân mất
lòng tin vào nó. Toàn dân thấy rõ tình trạng đạo lý xã hội xuống cấp
trầm trọng, thế nhưng khi bàn đến cải cách, đổi mới thể chế thì lại có
sự phân tán về quan điểm.
Trong khi khá đông người thấy rõ sự quan trọng, sự cấp thiết phải cải
cách, tuyên truyền, vận động cho cải cách thì một số người tỏ ra e dè,
không muốn. Tôi đoán nếu bây giờ mà làm cuộc trưng cầu dân ý với câu hỏi
“có đồng ý làm cải cách thể chế hay không” thì chắc là trong khi nhiều
người trả lời có, rất muốn cải cách, một phần không ít sẽ trả lời:
không. Mọi người đều biết Nga và các nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp, Đông
Đức… là những nước anh em, bạn bè thân thiết của ta trong phe XHCN
trước đây, đã làm cải cách thể chế trong hòa bình và hiện nay đang phát
triển rất tốt đẹp. Thế nhưng tại sao một số dân ta lại trả lời không
muốn làm như họ. Có một số người trả lời “không” vì sợ, vì phải làm và
nói theo sự chỉ đạo của đảng và chính quyền, nhưng cũng có một số thực
lòng không muốn. Phải chăng dân ta chịu khổ quen rồi, chịu áp bức quen
rồi nên không muốn thay đổi? Không, chẳng ai quen với sự nô dịch và bị
áp bức, họ thực sự không muốn cải cách vì có những lý do khác nhau. Qua
sự thăm dò, điều tra sơ bộ tôi thấy những người này có thể xếp thành bốn
loại (không kể những người thực tâm là muốn nhưng vì sợ hoặc vì bị bắt
buộc mà phải nói không, bọn họ thuộc loại người đã quen hoặc bị bắt buộc
dối trá).
Loại một là đa số những người sẽ bị thiệt về quyền lợi khi cải cách.
Một số trong bọn họ không những không muốn mà còn chống lại cải cách vì
đang tận hưởng cảnh “đục nước béo cò”, càng duy trì tình trạng như hiện
nay họ càng thu nhiều lợi. Mà suy cho cùng thì chính họ chứ không phải
ai khác đã chủ mưu, trực tiếp hay gián tiếp gây ra tình trạng xã hội như
hiện nay. Họ rêu rao là phải bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ,
chứ thực chất là bảo vệ quyền lợi của riêng họ và nhóm lợi ích của họ.
Một số còn bịa đặt là cải cách sẽ gây ra chiến tranh để hù dọa mọi
người. Loại một ước tính vào khoảng 2% dân số. Trong những người bị
thiệt về quyền lợi khi cải cách vẫn có không ít người hoạt động để cải
cách vì họ còn có lương tâm, họ biết cải cách sẽ mang lại lợi ích lâu
dài cho dân tộc, trong đó có họ.
Loại hai là một số người đang có quyền lợi lệ thuộc vào thể chế hiện
hành. Đó là những người hưởng lương hưu, hưởng chính sách xã hội. Trong
số này chỉ một ít có thu nhập khá còn phần đông cũng chỉ là đủ sống chật
vật, họ sẽ gặp khó khăn khi lương hưu bị chậm chứ chưa nói đến bị mất
tạm thời. Họ sợ cải cách, tuy là hòa bình nhưng có thể sẽ tạo nên sự
thay đổi dù chỉ trong thời gian ngắn, làm ảnh hưởng đến việc phát lương
hưu hoặc trợ cấp của họ. Đối với họ thà cắn răng mà chịu, hy vọng sự xấu
xa chỉ xảy ra với người khác, còn mình thì tìm cách tránh được chừng
nào hay chừng ấy. Họ không muốn cải cách chỉ cốt để giữ yên cái niêu cơm
còm cỏi, cái chỗ nằm chật chội và bẩn thỉu, họ biết đang bị khối u hành
hạ nhưng thà bị chết dần chết mòn do nó phát triển còn hơn chịu đau một
chút để cắt bỏ. Có một ít trong số họ vẫn còn hy vọng, tin tưởng vào
một chút nào đó lòng tốt và sự sáng suốt của chính quyền, chờ đợi sự ban
ơn từ chính quyền. Theo ước tính, số người thuộc loại hai chiếm khoảng
6% dân số. Về tỷ lệ, số này tuy không lớn nhưng ảnh hưởng của họ tương
đối rộng đến số người loại ba và dễ bị loại một lôi kéo. Trong số những
người hưởng lương hưu không phải tất cả thuộc loại hai, vẫn có nhiều
người không những muốn cải cách mà còn hoạt động tích cực cho cải cách.
Loại ba gồm đa số những người lao động bình thường, làm việc tự do
hoặc trong các tổ chức, họ chỉ cầu mong xã hội yên ổn để làm ăn, để nhận
lương, họ có tầm nhìn hạn hẹp, biết cải cách là tốt nhưng sợ sẽ làm xáo
trộn cuộc sống. Số này tuy không muốn cải cách nhưng sẽ sẵn sàng ủng
hộ, sẵn sàng tham gia cải cách khi nó xảy ra. Loại ba chiếm khoảng 10%
dân số.
Loại bốn là một số người đã bị nhồi sọ, bị mê hoặc mà ngây thơ tin
vào sự tốt đẹp của thể chế, của ý thức hệ, họ cho rằng xã hội có một số
tiêu cực chỉ là tạm thời và do một số người thoái hóa, biến chất gây ra,
còn chế độ hiện tại vẫn là ưu việt nhất. Số này thường bị người loại
một tuyên truyền, lừa phỉnh, quen với đầu óc nô lệ, ngu dân (mà cứ nhầm
tưởng rằng mình là người có giác ngộ cao). Loại bốn chiếm khoảng 3% dân
số.
Hiện nay số mong muốn cải cách, kêu gọi cải cách, hoạt động cho cải
cách đang phát triển trong mọi tầng lớp nhân dân: đang tại chức hoặc đã
nghỉ hưu, từ những người có vị trí trong xã hội hoặc chỉ là bình thường,
từ những tướng tá, sĩ quan, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, từ
những trí thức, văn nghệ sĩ, phóng viên và doanh nhân, từ những người
lao động, những sinh viên, học sinh. Những người thiết tha với cải cách
đang dần tăng lên, đặc biệt là trong tầng lớp tuổi trẻ. Tuy vậy trước
mắt chưa thấy xuất hiện một sự tập hợp có lãnh đạo thống nhất. Tôi nghĩ
rằng khi vận động cho cải cách thể chế cần công bố và thực hiện phương
châm “Giữ nguyên lương hưu cho những người đang hưởng”. Làm như vậy nhằm
bảo đảm quyền lợi và lôi kéo những người loại hai tham gia , ủng hộ
việc cải cách, làm cho lực lượng của phe cải cách tăng lên, thành sức
mạnh của toàn dân. Lực lượng ủng hộ càng đông làm cho công cuộc cải cách
càng trở nên bức thiết, càng thúc đẩy việc phải tiến hành cho đến thắng
lợi.
N.Đ.C.