IV. Lý lịch Hồ chí Minh trong Đèn Cù
Có người sẽ bảo là “rách việc” khi tôi đề cập đến phần lý lịch của Hồ
chí Minh trong loạt bài viết về Đèn Cù. Bị trách, tôi nhận. Nhưng không
thể không viết. Bởi lẽ, một trong những nỗi thắc mắc lớn của người Việt
Nam hiện nay, ngoài việc muốn biết về “ số phận Việt Nam” qua mật ước ở
Thành Đô là việc bạch hóa lý lịch thật của Hồ chí Minh. Ông ta là thiếu
tá Hồ Quang, người Tàu, gốc Hẹ, đảng viên đảng cộng sản Tàu theo hồ sơ
của quân ủy trung ương Trung cộng vừa công bố, hay là Nguyễn sinh Cung
người làng Kim Liên? Hai điểm thắc mắc này ai cũng muốn biết và nó có
khả năng đưa đến cái chết bất đắc kỳ tử cho chế độ CS tại Việt Nam. Bởi
lẽ, khi người dân Việt Nam biết Hồ chí Minh là người Tàu, biết được mật
ưóc Thành Đô, đảng cộng sản phải tan theo bánh xe Cù thị. Tiếc là, cho
đến nay hai nguồn chứng cớ quan trọng nhất, đều nằm trong tay phía cộng
sản, không ai có thể tiếp cận được.
Thứ nhất, tất cả những hồ sơ liên quan đến Nguyễn ái Quốc từ 1925 đến
1933 và sau này, đều nằm trong tay KGB của Nga và cụm tình báo Hoa Nam.
Nên sự đổi thay, nếu có, cả vệc tráo đổi người theo nguồn tin là Nguyễn
ái Quốc đã chết về bệnh lao sau khi ra khỏi tù ở Hồng Kông vào năm
1933, cũng hoàn toàn nằm trong tay hai tổ chức này. Thứ hai, việc DNA
cái xác của Hồ chí Minh đang nằm phơi khô ở Ba Đình cũng không có cơ hội
thực nghiệm và giảo nghiệm trước khi chế độ này bị triệt tiêu. Mật ước
Thành Đô cũng chung số phận.
Tuy nhiên, không phải vì những trở ngại này mà người ta ngừng đi tìm
kiếm sự thật. Trái lại, bằng nhiều hình thức khác nhau, các nhà nghiên
cứu cũng đưa ra được những lý lẽ rất mạnh mẽ để bảo vệ cho luận cứ của
mình trong việc đặt nghi vấn về lý lịch của Hồ chí Minh, qua tài liệu
mở, qua những cuốn sách được cho là của Hồ chí Minh, trong đó có Ngục
Trung Nhật Ký. Đây là một tập thơ viết bằng chữ Hán, không có tên tác
giả và đã gây ra khá nhiều tranh cãi về tác quyền. Việt cộng thì đánh
bóng và công bố đây là tập thơ của Hồ chí Minh … vồ được. Hơn thế, còn
nâng cấp nó lên là hàng “tài sản văn hóa” của dân tộc…. tầu ô. Ở chiều
ngược lại, có nhiều bài viết, trong đó phải kể đến cuốn “Ngục Trung nhật
Ký không phải là của Hồ chí Minh” do học gỉa Lê hữu Mục dày công nghiên
cứu, biên soạn và đã được phát hành mấy năm trưóc đây. Kế đến, những
bài phân tích chững chạc, mạch lạc của giáo sư Tâm Việt, giáo sư Lê trí
Viễn, ông Đỗ thông Minh, có cùng quan điểm và nhận được nhiều sự biểu
đồng tình tích cực. Cá nhân tôi có đề cập đến vấn đề này đôi ba lần
trong loạt bài “Tác giả Ngục Trung Nhật Ký không phải là người Việt
Nam”.
Dĩ nhiên, những bài viết này chưa có đủ tài liệu dẫn chứng một cách
xác thực đi kèm. Tất cả là những suy luận, những phán đoán. Những suy
luận, phán đoán ấy đã dựa vào những quy luật nhất định, có giá trị về
thời gian và bối cảnh mà tập thơ đã hoàn thành. Tất cả đều định hình
theo quy luật về thơ như thể thơ, phong thơ, ý thơ, tứ thơ, khổ thơ,
nghĩa thơ, hồn thơ, đạo thơ, và văn tự của thơ trên văn bản mà chứng
minh. Sự chứng minh, phán đoán, theo tôi, là có thể chấp nhận được,
nhưng nó vẫn chưa là chứng từ để kết luận.
Nay trong Đèn Cù, tác giả Trần Đĩnh, đưa ra một đoạn viết khá ngắn,
không một dẫn chứng, liên quan đến tập thơ và lý lịch của HCM. Đĩnh
viết: “Tàu Tưởng bắt tù Cụ Hồ chỉ cốt để báo cho biết nó chả ngọng Cụ là cộng sản, cụ muốn họat động thì hãy chịu cương tỏa của nó… Nhờ tập thơ giải bầy tâm sự trong tù với Tàu Tưởng, tôi đây yêu nước chứ không cộng sản, rồi nhờ có thêm người – như Hồ Học Lãm nói với Trương Phát Khuê, Cụ đã được ra tù và cùng với Nguyễn Hải Thần lãnh đạo Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.” (trang 37).
Sự thật thế nào?
Đọc thoáng qua, ai cũng thấy, đây là một đoạn viết ngắn, khá ngắn,
nhưng nó lại mang một sức chuyên chở ý rất nặng và rất lớn. Lớn như một
tờ giấy chứng thực tập thơ là của Hồ chí Minh? Nặng hơn hàng trăm, hàng
nghìn những trang báo, bài viết của những dịch giả như Huệ Chi, Nam
Trân, Đỗ văn Hỷ…. và những bài thuộc diện thổi ống nói về tập thơ của
các nhà văn, nhà báo Việt cộng, cộng lại. Bởi lẽ, Đĩnh ở vào cái vị thế
mà những người kia không bao giờ có. Đĩnh gần “ Hồ”, Đĩnh biết nhiều,
biết hết mọi chuyện về “bác”. HCM có thể nói đùa, bỡn với Đĩnh “thế người ta đi đái cũng theo à?”,
trong lúc những người khác nếu có dịp tiếp xúc với Hồ theo từng nhóm,
từng đoàn thì việc giữ cho cái trống ngực khỏi đập loạn nhịp đã là may
mắn rồi, nói chi đến câu truyện thân tình. Họ chỉ viết theo tiếng kẻng!
Theo đó, khi Đĩnh viết về tập thơ, quyết đoán như thế, chuyện người
ngoài có tin hay không mặc kệ. Riêng cánh làng thổi thì mừng đến rơi
nước mắt. Rồi những đôi mắt xanh sao, vàng vọt, lơ láo lo lắng vì không
biết trả lời ra sao trước những thách đố cho rằng tập thơ ấy không phải
là của Hồ chí Minh đều dồn về Đĩnh, coi Đĩnh như là cứu chúa. Dù chẳng
quen biết Đĩnh, nhưng nếu cần bầu Đĩnh vào vai trò thủ lãnh bảo vệ tập
thơ là của “bác” thì tất cả đều giơ tay. Lý do, ngay chuyện kín “cụ Hồ che râu đến dự một buổi”,
nói ra là bôi tro trát trấu vào mặt “bác”, là đụng vào cái búa của
đảng, Đĩnh cũng huỵch toẹt ra rồi. Chuyện này ai dám nói, dám viết? Đĩnh
dám viết là có chứng cớ, là khả tín? Chẳng biết sự khả tín ra sao, đã
thấy Bùi Tín vội vàng nhảy vào dựa hơi, ăn ké “Tôi có thể chứng thực những điều Trần Đĩnh viết ra là chân thực” (
Người đẹp nhất trong Đèn Cù). Lạ thật, không biết Bùi Tín lấy tư cách
gì, tiêu chuẩn nào mà cấp giấy chứng thực cho Trần Đĩnh? Bạn tôi bảo. Lạ
quái gì. Cộng đảng viên nào cũng có cái bệnh lạ này như nhau. Bệnh
đảng. Bệnh ồm ộp từ vũng nước dưới chân trâu! Ngửa mặt lên là bằng trời.
Chỉ tại cái vũng nước quá cạn!
Liệu cái “chứng thật”, cái “thế giá” này có đủ khả năng đánh bạt,
đánh đổ toàn bộ những lý luận, những bài viết cho thấy Hồ chí Minh là
người Tàu, gốc Hẹ và tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký (NTNK) không
phải là của Hồ chí Minh (Nguyễn Sinh Cung) hay không? Tôi cho là bất
khả, ngoại trừ hai trường hợp sau:
Thứ nhất. Nếu họ trưng ra được tất cả những tài liệu theo năm tháng
cùng với những hình ảnh từ 1932- 1943 là những năm mà người ta gọi 10
mất tung tích của Hồ chí Minh được công bố gắn liền với giấy chứng nhận
DNA trên cái xác phơi khô của HCM do những cơ quan chức năng thẩm quyền
quốc tế đảm nhận. Khi ấy, cái “tổ hợp” thắc mắc kia không đánh cũng tan.
Sẽ có nhiều người phải bẻ bút. Trong đó có thể có cả tôi. Ít nhất là
tôi sẽ có bài xám hối và xin lỗi độc giả về những loạt bài có liên hệ
đến lý lịch và tập thơ NTNK. Tuy nhiên, việc đưa ra bằng chứng về những
tội ác mà HCM đã phạm với dân tộc và đất nước Việt Nam tôi vẫn cứ tiếp
tục. Vì đó là bổn phận của ngưòi cầm bút phải đi tìm sự thật và truyền
đi sự thật.
Thứ hai. Một khi không có được những chứng liệu như đã nói ở trên,
thì chính đoạn viết ấy lại là sự xác định Hồ chí Minh là người Tàu và
tập thơ không phải là của Nguyễn sinh Cung. Khi đó, những câu chuyện của
làng thổi như những bài ca vô tận về “Người hay ngợm” chỉ còn là tiếng
ọp ẹp trong vũng nước dưới chân trâu như đã từng, và Đèn Cù khéo mà tự
bốc hỏa. Nó thiêu rụi cả tác giả và cả cánh làng thổi từ xưa đến nay.
Trừ trường hợp tác gỉả cho thấy đây là một đoạn văn mở ngược ý, để chứng
minh Hồ chí Minh là người Tàu, yêu nước Tàu và không phải là tác giả
của Ngục Trung Nhật Ký? Nghĩa là Đĩnh muốn dùng một số nội dung “râu ông
cắm cằm bà” của một số bài thơ để phản chứng cho đoạn viết vô lý của
mình. Bởi vì, Đĩnh đã biết HCM là người Tàu, và tập thơ là của ngưòi
khác. Nhưng không thể viết theo ý mình, nên phải chọn cách tránh né, nói
ngưọc này để diễn đạt ý muốn viết?
Đến đây, tôi chưa có kết luận là bạn nên ngả theo phía nào trước. Tuy
nhiên, việc tìm ra sự thật trong đoạn viết của Trần Đĩnh là “chân thật”
là khả tín như làng thổi tung hê theo ý của họ, hay nó lại là “tôi đây yêu nước Tàu, không phải cộng sản”,
không có một khó khăn nào hết. Trái lại, nó sẽ phơi bày ra ánh sáng
công luận chỉ sau một câu hỏi: Dựa vào những tiêu chuẩn nào để Trần Đĩnh
viết ra đoạn văn đầy tính xác quyết như giấy chứng nhận về lý lịch, rồi
ban cấp cho Hồ chí Minh là tác giả của tập thơ NTNK? Theo tôi câu trả
lời gồm có hai phần. Thứ nhất, tìm hiểu về sự gần gũi và cái thế giá cá
nhân của Trần Đĩnh với HCM. Thứ hai, phân đoạn viết trên thành ba phần
để tìm lời giải đáp.
A. Sự gần gũi và thế giá của Trần Đĩnh
Không ai phủ nhận Trần Đĩnh có sự liên hệ khá gần gũi với HCM trong
một thời gian dài tử Atêka cho đến sau này. Gần gũi đến nỗi, Trẫn Đĩnh
và bạn hữu có thể thoải mái tán gẫu về chuyện thích “gái nạ dòng của
Hồ”. Hơn thế còn gần gũi ngay cả khi Y đi đái nữa. Đĩnh viết (1960?): “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi theo.Cụ thuốc lá ngậm miệng, tay vén ống quần lên đái. Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi: “Người ta đái cũng theo à?” Không ạ, cháu…”. Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?” Câu tra hỏi đủa bỡn đã đóng một dấu ấn phơi phới vào quan hệ bác cháu. (tr 181)
Một người có hoàn cảnh như thế thì hẳn nhiên là có thể nắm rất vững
về giọng nói, âm nói và cách nói chuyện bằng tiếng Việt của Hồ chí Minh?
Đây là một lợi thế tốt hơn là chứng cớ tốt để Trần Đĩnh, một ngưòi được
giao trách nhiệm viết tiểu sử cho Hồ chí Minh, viết “bất khuất” đưa ra
đoạn viết xác quyết ở trên. Thoáng qua, nó khả tín và chắc chắn hơn
những chuyện vẽ vời của cánh làng thổi, làng dịch, làng ăn ké. Tuy
nhiên, nó vẫn có đầy khuyết tật cần phải vạch ra.
Thứ nhất. Tất cả những sự kiện về Nguyễn sinh Cung từ Làng Kim Liên,
đến khi vào Huế theo học, kế bị đuổi học, rồi lưu lạc vào Phan Thiết.
Xuống tàu xin làm bồi bép. Đến pháp thì xin vào học trường thuộc địa.
Sau thất bại về đường công danh, học vấn, Thành đi theo cộng sản Pháp.
Sang Liên Sô, vào tù ở Hồng Kông 1931. Rồi về hang Pác pó 1941. Lại sang
Tàu, đổi thành Hồ chí Minh, bị Tàu Tưởng bắt, thì Trần Đĩnh hoàn toàn
dựa vào những những sách báo của đảng cộng sản làm tuyên truyền. Đĩnh
viết “Mừng Đảng 30 tuổi, mừng Cụ Hồ 70, mừng 15 năm thành lập nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngoài ba đại khánh còn Đại hội lần thứ ba của Ðảng. Tháng 3, Tố Hữu triệu tập mấy người lập nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh với danh nghĩa Ban nghiên cứu lịch sử đảng. Gồm Tố Hữu, Phạm Bình (Ban nghiên cứu lịch sử đảng), Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh và tôi. Hai nhà văn vào tận quê Cụ sưu tầm tài liệu. Phạm Bình cung cấp tài liệu. Tôi viết. Cố nhiên cũng sưu tầm cả tài liệu. Hai nhà văn trở ra với nhiều điều giật gân. Cụ sinh năm 1891! Cụ Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy tròn 1890. (tr167)
Đến khi bắt tay vào việc, Trần Đĩnh đã xác nhận phải viết theo cái búa chỉ đưòng, không viết theo đìều mình biết. Đĩnh kể “Phải viết một loạt bài về lịch sử đảng, tôi đã đọc những tài liệu về chuyện này. Lẽ tất nhiên đều ỉm đi, cho tất cả vào cái sọt giấy vĩ đại là sự quên, sự lờ, sự nhắm mắt lại. Gọn một chữ là sự gian dối. Để đổi lấy uy tín đảng” (trang192).
Nghĩa là phải bỏ qua mọi tài liệu, Đĩnh đã viết bằng sự gian dối để
được lòng đảng. Tôi rất trân trọng, ngưỡng mộ lòng quả cảm của Trần Đĩnh
trong câu viết này. Tôi tin rằng, đây chính là tiếng nói tự đáy lòng
Đĩnh. Đáy lòng còn có hình ảnh của một bà mẹ kính yêu và tổ Quốc Việt
Nam trong Đĩnh.
Như thế, câu trả lời đã có. Trần Đĩnh không viết theo những tài liệu,
theo chứng cứ có thể là có thật, hay những điều Trần Đĩnh nghe, biết.
Trái lại, Trần Đĩnh đã viết bằng sự giả dối, viết dưới cái búa của đảng
cộng sản. Cái búa này, cho đến nay chưa bao giờ rời xa Đĩnh! Theo đó, sự
gần gũi thân tình, biết hết về HCM tự nhiên mất gía trị. Nó không thể
nói lên, hoặc chứng minh cho những điều Trần Đĩnh biết và viết là giống
nhau. Từ đó sự khả tín và “chân thật” có lẽ cũng không còn. Bởi lẽ, nếu
có biết rất thật âm thanh ấy không phải là âm thanh của người Việt Nam
thuần túy, giọng nói ấy là giọng nói của một ngưòi ngoại, thuộc dòng
phát âm độc âm như Việt Nam, và có vóc dáng hao hao Viêt Nam, nhưng
không phải là cái lề thói thổ âm, kiểu cách, điệu bộ của người ở vùng
làng Kim Liên, Nam Đàn. Trần Đĩnh cũng phải lờ nó đi, không được phép
thắc mắc và phải viết bằng sự giả dối, và uy tín đảng!
Ấy là chưa kể đến phần tâm lý luôn nằm sâu trong lòng Đĩnh là: “gần
vua như gần cọp”. Sự gần gũi giữa đôi bên không phải là một quan hệ
ngang hàng, thân cận, nhưng là một thuộc hạ khá thấp, tiếp xúc với một
lãnh tụ cao nhất, không tránh khỏi những cảm xúc tâm lý bất ổn. Lại
không phải là một gián điệp do địch gài vào, nên không để ý, hay không
đánh giá, không thắc mắc người đối diện mình là ai. Thay vào đó là sự
tôn kính và tôn sùng lãnh tụ ngay từ trước ngày bước chân vào Atêka, nên
không thể có sự tìm hiểu cách thế nói chuyện, giọng âm có khác với
người Việt Nam hay không. Trái lại, nhìn tất cả những sự việc giả dối
chung quanh cá nhân người này bằng cái nhìn tôn kính, tôn sùng lãnh tụ,
nên nếu có thấy cái lối phát âm khác lạ, kiểu nói khác lạ, Trần Đĩnh
cũng sẵn sàng đánh lừa chính mình bằng nhận định “bác” ở ngoại lâu quá
nên nóí líu cả lưỡi, đôi khi quên mẹ nó cả tiếng Việt. Hay nói tiếng
Tàu. Nói chữ Đ lại ra chữ L”. Giống như cuốn băng duy nhất HCM trả lời
trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Nhật. Như thế, sự gần gũi tự nó
không thể là một chứng cớ, một điểm tựa giúp cho Trần Đĩnh trong trường
hợp viết đoạn văn như giấy chứng nhận ở trên. Sự xác thực của nó chỉ còn
dựa vào nội dung của tập thơ NTNK.
B. Ba đỉểm chính trong đoạn viết của Trần Đĩnh
1. Những lý do được đưa ra khi HCM bị bắt ở Túc Vinh:
a. Trần Đĩnh xác định: HCM bị bắt vì là cộng sản: “Tưởng bắt tù Cụ Hồ chỉ cốt để báo cho biết nó chả ngọng Cụ là cộng sản”. Trong tập thơ cũng có một bài có thể chứng minh tác giả là cộng sản thuộc đảng cộng sản Phúc Kiến.
b. Lý do bị bắt do nhà nuớc Việt cộng công bố: bị tình nghi là gián điệp: “Khi kiểm tra căn cước tuần cảnh phát hiện ra rằng ngoài chứng minh thư của: Quốc Tế phản xâm lược hiệp hội Việt Nam, phân hội” ra, Hồ chí Minh còn mang theo thẻ hội viên đặc biệt của “Quốc Tế Tân Văn Xã”, và giấy thông hành quân dụng của Văn Phòng Tư lệnh Đệ Tứ chiến khu cấp… tất cả các giấy tờ đều cấp năm 1940, đã qúa thời gian sử dụng. Họ nghi Hồ chí minh là gián điệp nên bắt giữ”. (www.lichsuvietnam.vn/hom.php?option.). Không cho biết tên, tuổi ở trong những loại giấy tờ này.
C. Lý do Hồ bị bắt do Tầu Tưởng (chữ của Trần Đĩnh) công bố.
Tàu Tưởng không có công bố lý do khi bắt Hồ chí Minh. Tuy nhiên việc đưa
tác giả đi rong trên phố cho bà con xem mặt, như nhà nước Việt cộng đã
cho dẫn tù binh Mỹ riễu phố ở Hà Nội vào những năm cuối 1960 hay đầu
1970 để nuôi thêm lòng căm thù của nhân dân với đối phương thì tác giả
cho biết bị bắt vì tội làm Hán gian. Hán gian với Tầu Tưởng có thể hiểu
là hoạt động cho phát xít Nhật, hay là nằm vùng cho Tàu cộng. “Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian, Hán gian ta vốn thực vô can, Vô can vẫn bị nghi là có. Thực khiến lòng ta lạnh tới gan (“Trên Đừờng Phố”. Người dịch: Nam Trân).
c. Lý do bị bắt do chính tác giả đưa ra:
“Ta người ngay thẳng lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian”
(Đường đời hiểm trở).
Đây có lẽ là lý do đúng nhất. Và còn hơn cả sự đúng nữa. Chính tác giả đã xác định bản thân là ngưòi Tàu.
Chi tiết nào chứng minh tác giả là người Tàu? Tác giả là người Tàu vì
một lẽ rất đơn giản. Khi một người Tàu bị bắt vì nghi án làm việc cho
ngoại bang, cho đối phương chống lại nhà cầm quyền đương thời, đương
nhiên bị gọi là bọn Hán gian. Nếu tác giả là ngưòi Việt hoạt động cho
Việt cộng, cho Nga, cho Tàu khi bị bắt ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc hay ở bên Tàu
đều bị gọi là Việt gian. Người này không bao giờ bị gọi là Mỹ gian, Pháp
Gian hay là Hán gian. Cũng thế, khi một người Tàu phạm cùng loại tội bị
bắt tại Việt Nam, tại Mỹ, tại nguyên quán đều bị gọi là Hán gian. Ở
đây, chính tác giả đã xác nhận bị nghi là Hán gian. Rồi ngoài phố cũng
tranh nhau coi Hán gian. Chẳng lẽ Hán gian này lại có thể là người Việt
ư?
Xin hỏi, những phi công của Hoa Kỳ, bị bắt và bị đưa đi diễu phố ở Hà
Nội cho dân ném đá, xỉ vả và bạn của tác giả nhẩy ra vờ đấm hụt để khỏi
bị quy vào thành phần, họ bị gọi là gì? Bọn xâm lược đế quốc Mỹ, bọn Mỹ
gian, hay là Việt Gian, Hán gian? Nếu những tù binh này bị gọi là Việt
gian, là Hán gian thì tôi chấp nhận cái lý Hán gian trên là ngưòi Việt.
Rồi những người Việt Nam hoạt động cho Việt Nam Cộng Hoà, làm việc cho
Pháp bị Hồ chí Minh chém lén, họ có bị ghép vào tội là Hán gian hay
không? Hỏi là trả lời. Ngắn gọn, người mang quốc tịch nào, khi bị bắt vì
có hoạt động nguy hiểm chống lại chính quyền đương thời hay hoạt động
cho kẻ thù của quốc gia sở tại thì bị gọi bằng chính cái tên nước mà kẻ
đó đeo trên mình. Theo đó, tác gỉa chính là một người Trung Hoa, mà
chúng ta thường có thói quen gọi là người Tàu. Kế đến, khi Tàu Tưởng đưa
tác giả đi rong ngoài phố cho dân chúng nhìn mặt thì càng quả quyết là
sau những cuộc hỏi cung, Tàu Tưởng đã biết rõ tác giả là ai, ở đâu, đã
bị tình nghi có liên hệ với tổ chức nào chống lại chính quyền đương
thời. Về điểm này, thưa ông Trần Đĩnh, ý ông thế nào? Tác giả có phải là
người Việt Nam không? Phần tôi, xin cám ơn tác giả Trần Đĩnh đã dùng
phản đề, ngầm ý, để giúp cho độc giả nhìn rõ chân tướng tác giả là người
Tàu rất yêu nước Tàu!
2. “Nhờ tập thơ giải bày tâm sự trong tù với Tàu Tưởng.”
Phải công nhận đây là một ý kiến rất lạ lùng và rất đặc sắc mà tác
giả Trần Đĩnh đã khám phá ra, đã nêu ra làm chủ đề cho đoạn viết này.
Thật vậy, nỗi lòng, tâm sự u uẩn của một người có thể giải bày trọn vẹn
ra cho người ngoài, người đối diện với mình qua những bài thơ, để nhờ đó
tạo sự cảm thông. Một nàng kiêu sa, ngúng nguẩy, không thèm tiếp chuyện
ai kia, nhưng khi đọc được dòng tâm sự của chàng về mình qua những dòng
thơ trữ tình thì lòng mềm ra như bún. Cũng thế, một Tầu Tưởng mặt mũi
đỏ gay, đang hò hét vang cả nhà, bất chợt nhận được một tập thơ của một
ngưòi tù trong tay, Y không thể không liếc mắt đọc qua. Đọc rồi đưa đến
cảm thông. Nhưng nếu người tù trao cho Tàu Tưởng một xấp giấy đầy những
lời trần tình thống thiết, bi ai hay biện minh thì những trang giấy ấy
có nhiều cơ hội bị quăng vào sọt rác. Tại sao thế nhỉ?
Điều này thì chính Trần Đĩnh biết rõ hơn ai hết. Viết bình luận, thời
sự, phê bình, viết báo thì dựa vào những sự kiện trước mặt, có sẵn mà
viết, mà bình, mà giải. Viết văn thì dùng trí óc hư cấu từ câu chuyện có
thật của mình, của người hay bất chợt bắt gặp trong đời mà vẽ vời, văn
hoa thành truyện, thành tiểu thuyết. Nó không buộc phải trưng dẫn sự
kiện. Đến thơ, lại là một chuyên đề hoàn toàn khác biệt với những khuynh
hướng trên. Thơ là hơi thở, là nghĩa sống của tâm hồn. Ở trong thơ
không là những dòng chữ chạy theo sự kiện gian dối, búa liềm. Nó là chân
thật, là thao thức của tâm hồn. Nó là tiếng nói từ đáy lòng, là những
dòng chữ tuôn chảy, vươn tới đỉnh cao đẹp và chân thiện. Nó là cái đẹp
tinh khôi thuần khiết của nhân bản tính, nên người ta gọi nó là thơ, hồn
thơ. Cũng thế, ở trong Ngục Trung Nhật Ký hầu như có tất cả mọi vẻ đẹp
cao đẹp của một tập thơ. Nó không có một dấu hiệu nào là dùng dao mã tấu
chém chữ, nó lại cũng chân thật đến điên rồ nhận mình là Hán gian.
Thật vậy, Ngục Trung Nhật Ký hầu như có mọi tố chất tạo nên một vẻ
đẹp thanh cao của một người yêu nước, yêu nước thiết tha. Bỗng nhiên, vì
một lý do nào đó, nhất thời thân bị giam trong nhà lao. Cuộc giam cầm
này xem ra không cho ông một nỗi đau đớn của thể xác, nhưng chém vào
lòng ông một nhát dao trí mạng. Hán gian! Và từ hai chữ này, tác giả đã
trải nỗi lòng của mình ra theo từng bước chân, trên từng trang giấy với
những nhà lao đã qua. Mà lạ, không một nhà lao nào để lại trong ông nỗi
oán than về thể xác. Nhưng tất cả như làm héo úa lòng ông vì tiêu pha
ngày tháng vô ích trong khi tổ quốc vẫn có thể cần đến ông trong một
công việc gì, dù là nhỏ bé. Bất cứ người nào đọc NTNK cũng đều thương
cảm cho số phận của cánh chim bàng trong lồng. Tiếc là khi ra đi, chung
cuộc, ông không để lại tên tuổi quê quán để cho người đời sau kính vọng
ông.
Nhưng bỗng dưng, HCM … vồ được tập thơ, cho người dịch ra tiếng Việt
rồi nham nhở hô hoán, thổi phồng lên “nỗi lòng của bác ở trong tù”. Và
nay, Trần Đĩnh, người rất gần gũi với Hồ chí Minh, lại cho rằng, nhờ tập
thơ tâm sự, giải bày nỗi lòng này mà Tầu Tưởng tha cho “bác”. Thật, cái
trí tưởng tượng của chàng thanh niên 19 tuổi lên Atêka ngày nào vẫn còn
vượt đi ngàn dặm. Nhưng không biết, những bài thơ nào được coi là tiêu
biểu mà Trần Đĩnh gọi là “giải bày tâm sự trong tù với Tàu Tưởng, tôi đây yêu nước, chứ không cộng sản”. Liệu có phải là bài này hay không?
Nhà nhà hoa kết với đèn giăng,
Quốc khánh reo vui cả nước mừng;
Lại đúng hôm nay ta bị giải,
Oái oăm giá cản cánh chim bằng
Quốc khánh reo vui cả nước mừng;
Lại đúng hôm nay ta bị giải,
Oái oăm giá cản cánh chim bằng
“Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo” (Người dịch: Nam Trân)
Hay là :
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh.
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,
Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.
“Buồn bực” (Người dịch: Nam Trân)
Nếu là một trong hai bài này thì rõ ràng tác giả biện minh ông ta
không phải là cộng sản, nhưng là một người rất yêu nước, sẵn sàng chiến
đấu để bảo vệ cho quê hương. Nhưng đó là quê hương Tàu chứ không phải
quê hương Việt Nam. Vì ngày “Tết Song Thập” chính là ngày Quốc Khánh của
Trung Hoa Dân Quốc. Ông buồn. Buồn vì ngày mà cả nước mừng reo vui, (có
thể ông đã từng góp công góp sức cho ngày này). Nay, thân ông như một
cánh chim bàng, vẫn sẵn sàng vì tổ quốc mà lại bị coi là Hán gian phản
quốc, bị rẻ khinh chẳng đáng giá một đồng xu!
Nỗi lòng của ông không chỉ có bấy nhiêu. Nhưng vượt lên trên cả những
nỗi oan tình, oán than, dù cô quạnh trong chốn nhà giam, tác giả vẫn
không oán hờn người bắt mình. Thay vào đó là một khí phách lớn, bỏ qua
mọi tỵ hiềm, oán giận cá nhân mà viết lời kêu gọi đồng bào trong cả nước
hãy nghe theo lời Tổng Thống Tưởng giới Thạch mà chiến đấu chống phát
xít Nhật và tiêu diệt tập đoàn cộng sản Mao Trạch Đông. Đã thế, còn ca
tụng những chiến công của những viên tướng của Tưởng đã chiến thắng Tầu
Mao ở Chiết Giang như là những anh hùng của dân tộc. Tác giả viết:
(Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng. Người dịch: Đỗ Văn Hỷ)
Gian khó không lùi, vẫn tiến lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen
“Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh”. (Người dịch: Trần Đắc Thọ)
Đốc quân ngày trước vùng Tương, Chiết,
Chống giặc năm nay mạn Miến, Điền;
Lừng lẫy uy danh, thù mất mật,
Khải hoàn mừng trước, xướng thành thiên.
Chống giặc năm nay mạn Miến, Điền;
Lừng lẫy uy danh, thù mất mật,
Khải hoàn mừng trước, xướng thành thiên.
Phần cá nhân tác giả thì ngồi nhìn trời, ngắm trăng mà bước đi theo cái đạo trung trinh, cái nghĩa tiết tháo của vườn Đào: “Cành lá khéo in hình Dực Đức, Vần hồng sáng mãi dạ Quan Công. (“Tức
Cảnh”. Người dịch: Nam Trân). Có thế, đây quả thật là những bài thơ có
khả năng giải bày lòng yêu nước của tác giả với Tàu Tưởng. Ai đọc cũng
có thể thấy được nỗi lòng vì đất nước của tác giả. Hơn thế, biết rõ Tổ
quốc của tác giả là nước Trung Hoa. Như thế, tác giả tuyệt đối không
phải là Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn ái Quốc). Đã thế, tâm hồn tác giả xem
ra hiền hậu, khoan dung, hoàn toàn khác biệt với cái độc ác, vô lương,
bá đạo, bất nghĩa của Hồ chí Minh.
3. Những cuộc gặp gỡ và vận động xin trả tự do cho tác giả và cho Hồ chí Minh?
Đến đây, tôi buộc tôi phải có cái tiểu đề cho rõ ràng để phân biệt
cho hai trường hợp, tác giả Ngục Trung Nhật Ký và Hồ chí Minh. Bởi lẽ,
tôi không thể lừa tôi, tôi không thể lừa dối bạn đọc và dư luận. Lý do,
mọi người đã nhìn thấy rõ đây là hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng
xem ra nhà nuớc và cộng đảng Việt cộng lại cứ ỡm ờ cho hai cái khác này
quy vào một người chỉ vì ăn phải bả của HCM. Và đây có phải là điểm mà
Trần Đĩnh muốn cho mọi người nhìn thấy sự thật bằng phản đề chăng?
Thú thật, tôi rất ngạc nhiên, không biết tác giả lấy tài liệu ở đâu
ra, hay chính HCM nói cho Trần Đĩnh nghe là nhờ ông Hồ học Lãm nói giúp,
nên Trương phát Khuê đã thả Hồ chí Minh ra. Trong khi đó theo tài liệu
được ghi lại của Quốc Dân Đảng Việt Nam thì: “Sau khi xin phép Trương phát khuê vào thăm Nguyễn tường Tam thì cũng xin thăm luôn Hồ chí Minh, dù không biết Minh là ai. Sau đó hai họ Vũ và Nghiêm đề ghị BCH/VNVMĐMH, đứng ra can thiệp xin trả tự do cho Tam và Minh, Lần lượt sau đó hai người này được trả tự do và về trụ sở của VNCMĐMH để chờ hậu bổ ủy viên” (Chương
II: “VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI Hoàng văn Đào). Tôi không viết về
chyện ai đã vận động để Trương phát Khuê trả tự do cho HCM. Vì một bên
có tài liệu, một bên nói bằng… mồm. Và cả hai cùng chẳng ăn nhập gì đến
những cuộc thăm viếng và làm thay dổi đời tạm giam của tác giả. Bởi lẽ,
chính tác giả kể về chuyện này, chẳng có Nghiêm, chẳng có Vũ. Cũng chẳng
có Hồ học Lãm, như sau:
Lính tráng tuần canh nhìn nhẵn mặt,
Hôm nay mới được gặp văn nhân;
Người trông nho nhã, ai không thích,
Mái tóc ta xanh lại mấy phần.
Hôm nay mới được gặp văn nhân;
Người trông nho nhã, ai không thích,
Mái tóc ta xanh lại mấy phần.
“Khoa viên họ Trần tới thăm”. (Người dịch: Nam Trân)
Hay nói về tấm thịnh tình của cố cựu khi đến thăm tác giả?
Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cứu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cứu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương
“Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng”. (Người dịch: Huệ Chi).
Thế là quá rõ ràng.
4. Phần ngoại đề:
Hãy tạm bỏ quên những khác biệt về tài liệu sang một bên. Một câu hỏi
cần phải trả lời ngay để có thể tìm ra sự thật của câu chuyện là, nếu
tập thơ là của Hồ chí Minh thì khi nào Hồ chí Minh đã dùng tập thơ này
để giải bày, tâm sự nỗi lòng với Tầu Tưởng? Có phải là vào giai đoạn
trước khi Hồ chí Minh được thả chăng? Sự thường là thế. Nhưng nếu có
việc trao tập thơ này cho Tàu Tưởng, theo tôi, một trong ba trường hợp
sau đã xảy ra và Hồ chí Minh đều mất mạng.
1. Hồ chí Minh không bao giờ được Trương phát Khuê trả tự do, và có
thể bị vùi xác trong chốn nhà lao. Sẽ không có sự việc cho HCM gia nhập
vào VNCMĐMH và đưa về Việt Nam.
2. Hai là sẽ giải giao cho Pháp để lấy tiền mua vài lít rượi đế! Vì
Pháp đang cần bắt và sẵn sàng trả tiền cho ai bắt được những tên Việt
cộng đầu xỏ ở Việt Nam.
3. Thứ ba quan trọng hơn cả, Hồ chí Minh đã lĩnh được cái búa của Mao trưóc khi ra khỏi nhà lao. Tại sao lại như vậy?
Đơn giản là trước kia Tàu Tưởng chỉ nghi tác giả là Hán gian, nhưng
qua tập thơ tác giả lại lòi ra là tên cộng sản thuộc đảng ủy Phúc kiến.
Đây, Tác giả viết:“Một canh…. Hai canh… lại ba canh, Trằn Trọc băn khoăn giấc chẳng thành. Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt, Sao vàng Năm Cánh mộng hồn quanh’’
(Không ngủ được. Người dịch Nam Trân). Cở đỏ Sao vàng là cờ của đảng
cộng sản ở Phúc Kiến. Tàu Tưởng biết rất rõ lá cờ này. Khi đó cộng sản
tại Việt Nam chưa du nhập là cờ này vào tổ chức của họ. Theo đó, tác giả
thật sự có lẽ đã không còn. Ông ta đã chết vì Tàu Tưởng hay vì cái búa
của Mao? Hoặc giả, đã biến tưóng thành một người khác? Nhưng tại sao lại
phải chết?
Giả sử Hồ chí Minh là tác giả. Khi biết Hồ chí Minh là cộng sản, nếu
Tàu Tưởng không bán Hồ cho Pháp thì cũng sẽ phát tán tin tức, cho phổ
biến rộng rãi những bài thơ của Hồ, một kẻ phản đảng cộng ở Phúc Kiến,
ca tụng Tưỏng Giới Thạch, ca tụng Lương tướng quân, kẻ thù không đợi
trời chung với Mao cho các tù nhân trong tù đều biết mà noi gương. Mục
đích này dĩ nhiên chẳng tử tế gì, nhưng là nhờ tay những tù nhân cộng
sản cuồng tín của Mao ở trong tù thịt Hồ chí Minh. Bởi lẽ, kẻ chống Mao
như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu còn không tránh được cái búa của Mao, xá chi
một tên tù quèn An Nam như Hồ chí Minh! Rồi làm gì có cảnh Trương phát
Khuê nuôi cộng sản, bỏ cả tiền lộ phí và phát quân trang quân dụng, vũ khí cho Hồ chí Minh, đưa Minh về Nam lập nghiệp, giúp Mao trạch Đông đánh phá phía sau lưng tổ chức của Trương?
Về phía Mao, nếu Tàu Tưởng đã mua chuộc đưọc tên phản đảng, đã bảo vệ
y và đám tù của Mao không thịt được Hồ chí Minh thì Hồ cũng không tránh
được cái búa tạ của Mao trên đường về Việt Nam. Làm gì có chuyện Mao
cung phụng cho Hồ từ gái, đến nhân sự cố vấn, tiền bạc và quân trang
quân dụng để Hồ giúp Tưởng, đánh Mao? Như thế, chỉ có một lý lẽ duy nhất
để Hồ sống sót. Y là Hồ Quang, người của Mao, là gián điệp của Hoa Nam,
được những tên nằm vùng dưới trướng của Tàu Khuê bảo vệ. Hơn thế, còn
tìm cách để Khuê cho Hồ về nam lập phòng tuyến cho Tàu Tưởng, nhưng thực
tế là làm việc cho Mao?
Ấy là chưa kể đến trường hợp, khi tập thơ được dùng để “giải bày tâm sự với Tàu Tưởng”,
nó không còn nằm ở trong tay Hồ chí Minh nữa. Làm gì có chuyện Tàu
Tưởng chỉ xin chép lấy bản sao làm kỷ niệm, còn bản chính màu xanh nhạt
với ngày tháng đề 8-1932- 9-1933 trả lại cho Hồ chí Minh đem về Việt
Nam, giao cho “bầy em” dịch ra tiếng Việt mà ộp ẹp, ê a?
Tóm lại qua đoạn văn ngắn trên, tôi cho rằng, Trần Đĩnh không muốn
đốt chính mình. Trần Đĩnh chẳng ngô nghê. Trái lại, Trần Đĩnh có thể có
một chủ đích khác? Tuy nhiên, kết luận của đoạn viết này là khá rõ:
- Tác giả NTNK là một người Hán. Nếu Hồ chí Minh là Tác giả NTNK thì Y là người Tàu.
- Không có nhiều chứng cớ cho thấy Tàu Tưởng biết Hồ chí Minh là cộng sản.
- Tập thơ không phải là của Hồ chí Minh, nên không có chuyện dùng tập thơ để giải bày với Tàu Tưởng.
- Những ngưòi hoạt động để cứu Hồ chí Minh và những người đến thăm
tác giả là những người hoàn toàn khác biệt. Không có liên hệ gì với
nhau, và những cuộc thăm viếng cũng có mục đích khác nhau. Một bên vì
muốn cứu một người Việt Nam mới bị bắt giam, nhưng không ai biết lý lịch
của y ra sao, là ai, cũng không biết y là kẻ theo cộng sản. Chỉ nghe
Khuê nói Y là người Việt Nam, tên là Hồ chí Minh và mới bị bắt giam. Một
bên, có thể là đến thăm bạn đồng môn đồng liêu trước kia, nhưng nay bị
vướng vào vòng lao lý vì đã lầm đường theo cộng sản Phúc Kiến. Những
cuộc viếng thăm này có lẽ chỉ có mục đích thăm bạn, và nhờ ảnh hưởng của
họ, hy vọng bạn xưa bớt bị cực hình ở trong tù của Tưởng mà thôi. Nhưng
Hồ chí Minh vì lý do nào đó vồ được tập thơ và gây ra nghi án văn học
này thì chưa có lời giải đáp.
- Sự chủ quan mang tính xác định của Trần Đĩnh trong đoạn viết này sẽ
là nguyên cớ làm cháy Đèn Cù. Ngoại trừ trường hợp Đĩnh đã viết bằng sự
gian dối cho vừa lòng đảng! Đó lại là một câu chuyện khác!
© Bảo Giang
© Đàn Chim Việt