Diên Vỹ chuyển ngữ
08.06.2014
I. Hoạt động của giàn khoan HYSY 981
Vào ngày 2 tháng Năm 2014, giàn khoan HYSY 981 của một công ty Trung
Quốc bắt đầu hoạt động khoan bên trong khu vực tiếp giáp Quần đảo Tây Sa
của Trung Quốc (xem Phụ lục 1/5
về những địa điểm hoạt động) với mục đích tìm kiếm dầu và khí đốt. Khi
công đoạn đầu của hoạt động đã hoàn tất, công đoạn thứ hai bắt đầu vào
ngày 27 tháng Năm. Hai vị trí hoạt động cách Đảo Trung Kiến thuộc Quần
đảo Tây Sa của Trung Quốc 17 hải lý và nằm trong đường cơ sở hải phận
Quần đảo Tây Sa, cách xa khu bờ biển thuộc đất liền của Việt Nam từ 133
đến 156 hải lý.
Công ty Trung Quốc đã tiến hành thăm dò trong khu vực biển này từ 10
năm qua, bao gồm các hoạt động địa chấn và thăm dò giếng dầu. Hoạt động
khoan dò do HYSY 981 thực hiện lần này là sự tiếp tục của một quá trình
thăm dò thường xuyên và nằm đúng trong chủ quyền và thẩm quyền lãnh thổ
của Trung Quốc.
II. Hành động khiêu khích của Việt Nam
Ngay sau khi hoạt động thăm dò của Trung Quốc vừa khởi sự, Việt Nam
đã đưa một lượng lớn các tàu thuyền, bao gồm tàu vũ trang đến khu vực và
phá rối mạnh mẽ và phi pháp hoạt động của Trung Quốc, họ đã đâm vào các
tàu của nhà nước Trung Quốc làm nhiệm vụ dẫn dắt và bảo vệ trong khu
vực ấy. Cùng lúc, Việt Nam cũng đã đưa người nhái và những thiết bị dưới
nước vào khu vực để thả một lượng lớn các chướng ngại vật, bao gồm lưới
đánh cá và các vật nổi trong khu vực biển. Vào lúc 5 giờ chiều ngày 7
Tháng Sáu, đã có đến 63 tàu thuyền Việt Nam trong khu vực vào thời điểm
cao độ nhất để tìm cách chọc thủng tuyến bảo vệ của Trung Quốc và đâm
vào các tàu của chính quyền Trung Quốc với tổng cộng 1.416 lần.
Những hành động nói trên của phía Việt Nam là những vi phạm nghiêm
trọng đối với lãnh thổ, chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, đe
doạ trầm trọng đến sự an toàn của nhân viên Trung Quốc và giàn khoan
HYSY 981, và là những vi phạm trắng trợn đến luật lệ quốc tế quan yếu,
bao gồm Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và Công ước về ngăn ngừa các hành động bất hợp pháp vi phạm an toàn lưu thông hàng hải và Nghị định thư về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp vi phạm sự an toàn của nền tảng cố định nằm trên thềm lục địa.
Những hành động này cũng gây ảnh hưởng xấu đến quyền tự do và an ninh
lưu thông trong khu vực biển, làm tổn hại đến hoà bình và ổn định trong
khu vực.
Trong khi dùng bạo lực một cách phi pháp để gây rối hoạt động bình
thường trên biển của công ty Trung Quốc, Việt Nam lại còn dung dưỡng
những cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong nước. Vào giữa tháng Năm,
hàng nghìn phần tử vô pháp luật tại Việt Nam đã tiến hành việc đánh đập,
đập phá, hôi của và đốt cháy các công ty của Trung Quốc và của một số
quốc gia khác. Họ đã giết hại một cách dã man bốn người có quốc tịch
Trung Quốc và gây tổn thương hơn 300 người khác, và đã gây ra những
thiệt hại tài sản to lớn.
III. Phản ứng của Trung Quốc
Các vùng biển giữa Quần đảo Tây Sa của Trung Quốc và vùng biển thuộc
đất liền của Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai bên vẫn chưa tiến
hành xác định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng
biển này. Cả hai bên đều có quyền tuyên bố đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa theo quy định của UNCLOS. Tuy nhiên, các vùng nước này sẽ không bao
giờ trở thành đặc khu kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam dù áp dụng
bất kỳ nguyên tắc nào vào việc phân định.
Để đối phó với hành động khiêu khích trên biển của Việt Nam, Trung
Quốc đã kiềm chế rất nhiều và và đã tiến hành những biện pháp phòng ngừa
cần thiết. Các tàu của chính phủ Trung Quốc đã được điều đến hiện
trường với mục đích bảo đảm an toàn hoạt động, qua đó đã giữ gìn trật tự
qui trình sản xuất và hoạt động trên biển và an toàn hàng hải một cách
hiệu quả. Trong khi đó, kể từ ngày 2 Tháng Năm, Trung Quốc đã có hơn 30
lần liên lạc với Việt Nam ở các cấp độ khác nhau, yêu cầu phía Việt Nam
chấm dứt hành động phá rối phi pháp của mình. Tuy thế, thật đáng tiếc là
việc gây rối phi pháp của Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.
IV. Quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc
1. Quần đảo Tây Sa là một phần vốn có của lãnh thổ Trung Quốc, không gì bác bỏ được.
Trung Quốc là quốc gia đầu tiên đã khám phá, phát triển, khai thác và
thực hiện thẩm quyền đối với quần đảo Tây Sa. Trong triều đại Bắc Tống
(960-1126 Sau Công nguyên), chính phủ Trung Quốc đã thiết lập thẩm quyền
đối với quần đảo Tây Sa và đưa hải quân đến tuần tra các vùng biển ấy.
Năm 1909, Tư lệnh Lý Chuẩn của hải quân Quảng Đông của nhà Thanh đã dẫn
đầu chuyến thanh sát quân sự trên quần đảo Tây Sa và tái khẳng định chủ
quyền của Trung Quốc bằng cách kéo cờ và bắn một loạt đạn trên đảo Hưng
Vĩnh. Năm 1911, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã công bố quyết định đưa
quần đảo Tây Sa và vùng biển lân cận vào dưới thẩm quyền của Huyện Ya
thuộc đảo Hải Nam.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Nhật Bản đã xâm lược và chiếm
đóng quần đảo Tây Sa. Sau khi Nhật đầu hàng vào năm 1945, chiếu theo một
loạt các văn bản quốc tế, chính phủ Trung Quốc đã cử quan chức cấp cao
đi tàu quân sự đến quần đảo Tây Sa vào tháng 11 năm 1946 để tiến hành lễ
tiếp nhận các hòn đảo, một tấm bia đá đã được dựng lên để kỷ niệm việc
bàn giao và sau đó quân đội đã trấn thủ ở đấy. Vì thế, Quần đảo Tây Sa,
vốn từng bị một quốc gia khác chiếm đóng bất hợp pháp đã được trả về
thẩm quyền của chính phủ Trung Quốc.
Năm 1959, chính phủ Trung Quốc thiết lập Văn phòng Quản lý các Quần
đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa. Vào tháng Giêng năm 1974, quân đội và
nhân dân Trung Quốc đã đánh đuổi đội quân xâm lược của chính quyền Sài
Gòn thuộc miền Nam Việt Nam ra khỏi đảo San Hô và đảo Cam Tuyền thuộc
quần đảo Tây Sa để bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của Trung Quốc. Chính
phủ Trung Quốc đã ban hành Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp
vào năm 1992 và công bố các điểm cơ sở và đường cơ sở thuộc lãnh hải
của quần đảo Tây Sa vào năm 1996, trong đó đều khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và giới hạn các vùng lãnh hải của các
đảo. Năm 2012, chính phủ Trung Quốc đã thành lập những cơ quan hành
chính cho thành phố Tam Sa trên đảo Hưng Vĩnh thuộc Quần đảo Tây Sa.
2. Trước năm 1974, không một chính phủ kế thừa nào của Việt Nam đã
thách thức chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa. Từ cổ xưa,
Việt Nam đã chính thức công nhận quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ
của Trung Quốc. Quan điểm này đã được phản ánh trong các tuyên bố và ghi
chú của chính phủ cũng như trên báo chí, bản đồ và sách giáo khoa của
họ.
Trong một cuộc họp với đại diện lâm thời Li Zhimin thuộc Đại sứ quán
Trung Quốc tại Việt Nam vào ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Ngoại
giao nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Ung Văn Khiêm đã long trọng tuyên bố
rằng "theo dữ liệu của Việt Nam, các Quần đảo Tây Sa và Nam Sa trong
lịch sử là một phần của lãnh thổ Trung Quốc." Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ
châu Á của Bộ Ngoại giao Việt Nam, người cũng có mặt tại cuộc họp, đã
trích dẫn cụ thể dữ liệu của Việt Nam và chỉ ra rằng, "xét về mặt lịch
sử thì các quần đảo này đã là một phần của Trung Quốc vào thời nhà
Tống."
Ngày 4 tháng Chín năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã ban hành một bản tuyên bố (xem Phụ lục 2/5),
trong đó nói rằng bề rộng phạm vi lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa là 12 hải lý và nói rõ rằng "quy định này áp dụng cho tất cả
các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm cả Quần
đảo Tây Sa ... ". Ngày 06 tháng Chín, báo Nhân Dân, tờ báo chính thức
của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đã công bố trên trang nhất
toàn bộ văn bản tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải của Trung
Quốc. Ngày 14 tháng Chín, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của chính phủ Việt
Nam đã gửi một công hàm ngoại giao (xem Phụ lục 3/5)
đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, long trọng
tuyên bố rằng "chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công nhận và hỗ
trợ tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về quyết
định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc đưa ra ngày 04 tháng Chín năm
1958 " và "chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết
định này".
Ngày 09 tháng Năm năm 1965, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã ban hành một tuyên bố liên quan đến các “khu vực chiến sự” của quân
đội Mỹ tại Việt Nam do chính quyền Hoa Kỳ chỉ định. Tuyên bố nói rằng
"Việc Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson chỉ định toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam và các vùng biển lân cận với giới hạn khoảng 100 dặm từ bờ biển của
Việt Nam và một phần của lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc
thuộc quần đảo Tây Sa là ‘khu vực chiến sự’ của quân đội Hoa Kỳ ... là
sự đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
các nước láng giềng ... "
Trong tập Bản đồ Thế giới in vào tháng Năm năm 1972 của Cục
Khảo sát và Bản đồ thuộc Văn phòng Thủ tướng Việt Nam đã ghi quần đảo
Tây Sa theo tên Trung Quốc (xem Phụ lục 4/5).
Sách giáo khoa địa lý lớp chín do Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam phát
hành năm 1974 có một bài dạy mang tên "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" (xem
Phụ lục
5/5). Trong đó viết, "Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các
đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Bành Bồ, Châu Sơn... làm thành một bức
Trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc...."
Nhưng giờ đây chính phủ Việt Nam lại đảo ngược lời nói của mình bằng
cách tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Tây Sa của Trung Quốc. Đó là một
vi phạm trắng trợn các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm các
nguyên tắc không được đảo ngược thừa nhận pháp lý và các tiêu chí căn
bản trong quan hệ quốc tế.
V. Giải quyết tình hình một các đúng đắn
Trung Quốc là một lực lượng trung thành trong việc duy trì hòa bình
và ổn định ở Biển Nam Hải và thúc đẩy hợp tác và phát triển giữa các
nước trong khu vực. Trung Quốc kiên quyết duy trì mục đích và nguyên tắc
của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các tiêu chí căn bản của quan hệ
quốc tế và các nguyên tắc căn bản của luật pháp quốc tế. Trung Quốc
không bao giờ muốn có bất kỳ một mối bất ổn trong khu vực láng giềng của
mình.
Trung Quốc muốn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, nhưng có những
nguyên tắc mà Trung Quốc không thể từ bỏ. Các kênh liên lạc giữa Trung
Quốc và Việt Nam đang mở ra. Trung Quốc kêu gọi Việt Nam cần ghi nhớ các
lợi ích chung của các mối quan hệ song phương và hòa bình và ổn định ở
Biển Nam Hải, tôn trọng chủ quyền, quyền về chủ quyền và quyền tài phán
của Trung Quốc, ngay lập tức chấm dứt tất cả các hình thức phá rối các
hoạt động của Trung Quốc và triệu hồi tất cả các tàu thuyền và nhân sự
ra khỏi khu vực để giảm bớt căng thẳng và khôi phục lại sự bình yên trên
biển càng sớm càng tốt. Trung Quốc sẽ tiếp tục nỗ lực của mình để giao
tiếp với Việt Nam nhằm giải quyết tình hình hiện nay một cách đúng đắn.
VI. Phụ lục