Mạc Văn Trang
Mưu đồ xâm lăng, thống trị Việt Nam đã được Trung Cộng tính toán từ
lâu, thực thi từng bước, mà bất cứ ai là người dân Việt có chút lương
tri, trách nhiệm với đất nước đều thấy rõ. Một số vụ việc cụ thể, tiêu
biểu là: Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa 1974; chiếm đoạt một số cứ điểm
quan trọng sau chiến tranh biên giới phía Bắc 1979; đánh chiếm đảo Gạc
Ma trong quần đảo Trường Sa 1988; lấn chiếm khoảng 1500 km2 trong quá
trình xác định, ký kết Hiệp định biên giới Việt – Trung (1999) và gần
đây là hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa, vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo đó là những hành động xâm lăng tàn
bạo, thái độ trâng tráo, bất chấp tất cả, đúng nghĩa một kẻ xâm lược
trắng trợn, đòi độc chiếm Biển Đông…
Thực tế là “ta càng nhân nhượng, giặc càng lấn tới, vì chúng quyết
cướp nước ta”, khuất phục dân ta, bắt dân ta phải sống dưới sự cai trị
của chúng. Ách cai trị của Trung Cộng không phải để “khai hóa văn minh”
như các nước tư bản phương Tây, mà là sẽ phát động những cuộc “cách mạng
văn hóa” để tiêu diệt hàng chục triệu người làm Trung Cộng “ngứa mắt”
(?); là thực hiện mưu đồ diệt chủng như Pôn Pốt đã làm ở Campuchia; là
tiến hành quá trình Hán hóa như ở Tây Tạng, Tân Cương; là sẵn sàng cho
xe tăng nghiền nát nhiều ngàn người trong một đêm, tại cuộc biểu tình
mồng 4 tháng 6 năm 1989 ở quảng trường Thiên An Môn… Đó là viễn cảnh của
Việt Nam dưới ách cai trị của Trung Cộng.
Trước thực tế này, Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cầm quyền duy nhất
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc trong cuộc
chiến chống xâm lăng của Trung Cộng. Đây là cuộc chiến khó khăn, phức
tạp hơn nhiều so với cuộc kháng chiến chông Pháp (1946 – 1954) và “Chống
Mỹ cứu nước” (1955 – 1975). Khó khăn về chính trị, kinh tế, văn hóa,
quân sự, ngoại giao… xin dành cho các nhà chuyên môn. Tôi chỉ nói mấy
khó khăn về khía cạnh tâm lý - xã hội.
1. Nhân dân Trung Hoa không thể như nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, thấy
được tính phi lý của giới cầm quyền và tính chính nghĩa của Việt Nam. Do
sống trong chế độ cộng sản toàn trị, tàn bạo hàng nửa thế kỷ, với cơ
chế tuyên tuyền áp đặt một chiều, bưng bít thông tin, khủng bố những
người khác ý kiến với Đảng Cộng sản, người dân Trung Hoa bị thuần hóa để
chỉ “nghĩ, nói, làm theo Đảng”, lại bị nhồi sọ tư tưởng dân tộc cực
đoan đại Hán, nên hiếm người biết sự thật và dám lên tiếng phê phán
chính quyền, ủng hộ chính nghĩa của Việt Nam. Ngay cuộc chiến tranh xâm
lược biên giới 1979 mà đến nay người dân Trung Hoa vẫn tin đó là “cuộc
chiến tự vệ”, “Đi dạy cho bọn khiêu khích Việt Nam một bài học” (!?).
Trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lăng hôm nay chẳng hy vọng có
những Henri Martin, Raymondienne và phong trào nhân dân Pháp phản đối
chiến tranh Đông Dương; cũng chẳng hy vọng có Norman Morrison tự thiêu
và phong trào xuống đường rầm rộ của nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến
tranh tại Việt Nam… Như vậy là giới cầm quyền Trung Cộng có hậu phương
yên ổn, để huy động sức người, sức của cho cuộc chiến xâm lăng một cách
thuận lợi. Hơn nữa Trung Cộng còn dùng thủ đoạn “đánh ngoài, để dẹp
trong” như hồi chiến tranh biên giới 1979…
2. Cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lăng không được thế giới ủng hộ
mạnh mẽ. Cuộc chiến này không có “Liên Xô, Trung Quốc, phe xã hội chủ
nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế” ủng hộ như trước nữa. Những nước
“xã hội chủ nghĩa” Triều Tiên, Cu Ba èo uột có ủng hộ Việt Nam không?
Hai người anh em “sống chết có nhau” trên bán đảo Đông Dương, bây giờ
nghe Trung Cộng hay nghe Việt Nam? Còn nhân dân thế giới chẳng quan tâm
đến cuộc chiến này đâu, vì nó không phải là những trận B52 ném bom hủy
diệt, chấn động nhân loại; nó là cuộc xâm lược âm thầm, “vừa ăn cướp vừa
la làng”, “vừa đấm vừa xoa”, “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong
nham hiểm giết người không dao”… Chính phủ các nước cũng chẳng ủng hộ
Việt Nam lắm đâu, vì “kệ hai thằng cộng sản diệt nhau cho chết nốt”.
Nhiều chính phủ các nước có dính líu nợ nần, làm ăn với Trung Cộng, dễ
gì bỏ qua những món lợi do chúng mồi chài… Hơn nữa, Trung Cộng luôn lớn
tiếng “giải quyết song phương”, bên ngoài đừng can thiệp vào; và ông Đại
tướng Bộ trưởng Quốc phòng của ta cũng tuyên bố tại hội nghị Shangri-La
(31/5/2014) về tính chất của xung đột Trung – Việt chỉ là: “Trên thực
tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn,
bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh
chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” Vậy là
chuyện có tính “nội bộ”, còn ai muốn xía vô!
3. Lòng dân trăm mối ngổn ngang. Các cuộc chiến trước đây “Toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân một ý chí”, “Thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Trên dưới một lòng”,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”!... Biết bao nhiêu cán bộ, đảng viên
chỉ có hai bàn tay trắng, cứ bám vào dân là được dân che chở, nuôi
sống, giúp đỡ… Nay thì khác hẳn. Nhiều người, nhiều nhóm lợi ích coi
quyền và tiền trên cả độc lập, tự do. Thực ra độc lập, tự do đã bị Đảng
Cộng sản Việt Nam đem đi cầm cố cho Trung Cộng ở Thành Đô năm 1990 để
đổi lấy sự sống còn của Đảng và chế độ cho đến hôm nay. Các giai tầng
trong xã hội có sự phân tâm ghê gớm. Tôi vừa nghe một doanh nhân nói
oang oang trước một đám người đáng bậc cha chú: “Nó hơn một tỉ ba dân,
chỉ ra lệnh cho mỗi người uống một chai la-vi rồi đái ra là dân mình
chết ngập mẹ hết rồi, cần gì phải đánh” (!). Lại nghe một Đại tá quân
đội nghỉ hưu nói: “Âm binh nó yểm khắp nơi rồi. Phải vũ trang toàn dân,
từng thôn, xã, huyện, tỉnh là những đơn vị sẵn sàng chiếu đấu tại chỗ,
quân đội tập trung vào những mũi chính”… Ông Trung tá công an hưu trí
liền nói: “Chúng nó không dám phát súng cho dân đâu. Nó sợ dân có súng,
chưa bắn Tàu, bắn bể đầu chúng nó trước” (?). Trong khi đó rất nhiều
người dân cho rằng: mình càng hèn, nó càng bắt nạt, mình dám đương đầu,
nó sẽ chờn. Hơn nữa, mình không sợ, dám dũng cảm đương đầu thì mới nghĩ
ra được cách đánh và cách thắng, chứ hèn nhát, run sợ thì còn nghĩ ra
cái con mẹ gì! Bà hàng xóm nhà tôi bảo: Đêm nào em cũng cầu kinh, mong
cho Trời Phật, anh linh bác Hồ, bác Giáp và các anh hùng liệt sĩ về gây
bão tố đánh chìm tan tác cái giàn khoan với tàu bè chúng nó đi! Gần đây,
“tứ trụ triều đình” đều lên tiếng khá mạnh mồm, nhưng dân không mấy tin
tưởng, thậm chí có người còn bảo “Nó diễn đấy!”. Khi tôi đăng bài: “Khí
phách của Thủ tướng và trí, dũng của ngư dân” trên Tễu blog, có người
nhắn vào điện thoại: “Đả đảo Mạc Văn Trang”! Một ông bạn GS gọi điện
bảo: “Nó diễn thế mà cậu cũng tin à?”… Dân vẫn không hiểu, sao đến giờ
ta vẫn chưa dám kiện Trung Cộng ra Tòa án quốc tế? Khi người Việt ở hải
ngoại sôi sục biểu tình phản đối Trung Cộng xâm lăng, có người ở trong
nước phải ra nước ngoài để được tự do biểu tình, thì Chủ tịch Quốc hội
kêu gọi người Việt ở hải ngoại “gìn giữ quan hệ hữu nghị Việt - Trung”…
(tại phiên họp bế mạc của Quốc hội, 24/6/2014). Dân ta không hiểu ông có
ý gì? Ngày 26/6/2014 tại TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trương Tấn Sang tiếp
xúc cử tri, đã bị chất vấn rất nhiều về vấn đề bảo vệ chủ quyền ở Biển
Đông. Khi ông nói rằng: Vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, “Năm nay không
xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau, đời ta
không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy”... (Tuổi Trẻ
27/6/2014), nhiều người dân đã có phản ứng tiêu cực… Tóm lại, đa số dân
ta quyết chống Trung Cộng xâm lăng, nhưng không còn tin Đảng và cũng
không biết tin ai, tin vào cái gì! Một trạng thái tâm lý - xã hội cực kỳ
nguy hiểm.
4. Khó khăn lớn nhất, đẻ ra mọi khó khăn trên, là do Đảng Cộng sản
Việt Nam coi Trung Cộng là đồng chí, anh em cùng ý thức hệ, dựa vào
Trung Cộng để bảo vệ sự sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của chế độ
“xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam, nhưng cũng luôn sợ hãi và không tin Trung
Cộng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lừa dối dân để đi đêm với Trung Cộng
nhiều chuyện mờ ám; những quan hệ mập mờ đó suốt mấy chục năm qua đã bị
Trung Cộng tận dụng gây ra biết bao hậu họa khôn lường và giờ đây các
thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đều như “Cá cắn câu biết đâu mà
gỡ”, “há miệng mắc quai”… Nhiều người dân nói rằng: Cảm ơn cái giàn
khoan Hải Dương 981, nhờ nó mà bản chất đại Hán, xâm lăng, lật lọng, đểu
cáng của Trung Cộng (xưa nay vẫn được Đảng Cộng sản Việt Nam lập lờ che
đậy), mới phơi bày ra hết, để mọi người dân Việt Nam nhận ra Trung Cộng
vẫn là kẻ thù truyền kiếp nguy hiểm nhất, độc ác nhất… Ấy vậy mà trong
giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này vẫn có những người muốn bấu
víu vào cái “viển vông” “bốn tốt”, “16 chữ” để cứu vãn tình thế… Có ông
tuyên huấn vẫn nói: Mặc dù bị tàu “bạn” đâm, va nhiều lần, nhưng các
chiến sĩ của ta vẫn bĩnh tĩnh, tuyền truyền, giải thích… “Bạn” cái con
mẹ gì nữa! Nó là giặc cướp biển rõ rành rành ra đó. Đảng Cộng sản Việt
Nam nói năng ấp úng, thái độ bất nhất, hành động ngập ngừng là vì lướng
vướng những ràng buộc với Trung Cộng, khiến đầu óc bấn loạn, tư duy lộn
xộn, mặc cảm sợ hãi, ám ảnh chứa chất trong tâm can… Như thế thì còn đâu
bản lĩnh, dũng khí của đảng cầm quyền để dẫn đạo nhân dân!
*
* *
Giải pháp tốt nhất để vượt qua những khó khăn trên là: Đảng Cộng sản
Việt Nam phải dũng cảm, dứt khoát thoát khỏi những ràng buộc lướng vướng
với Trung Cộng, vì chính nó đã xé bỏ trước rồi; thoát khỏi ý thức hệ
“đồng chí, anh em”, vùng ra khỏi nanh vuốt của con ác thú, dù phải đau
đớn nhất thời; phải dựa hẳn vào dân, tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh vô
địch là lòng yêu nước của mọi tầng lớp dân ta. Nếu lịch sử cần thì cũng
sẽ xuất hiện những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung… của thời nay. Chỉ khi Đảng dám tuyên bố “Không có gì quý
hơn Độc lập của Tổ quốc, Tự do của nhân dân”, dám thoát khỏi nanh vuốt
của Trung Cộng và thay đổi “căn bản toàn diện” thể chế, đem lại dân chủ,
tự do thật sự cho nhân dân mới đoàn kết được toàn dân, lấy lại niềm tin
của dân, tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc. Nhờ đó mới cứu được nước,
cứu được dân và cứu được Đảng. Bởi vì quy luật xã hội đã chỉ rõ: Độc
đảng, độc quyền dẫn đến độc tài, tàn bạo là tất yếu sẽ bị diệt vong như
mọi chế độ độc tài trong lịch sử nhân loại. Nếu Đảng đủ trí, dũng tự
“xoay trục” lần này thành công, dân cũng thể tất cho những lỗi lầm đã
qua. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ còn một cơ hội thôi! Nếu Đảng tự “thoát
Trung” và đưa đất nước phát triển theo con đường sáng của nhân loại, thì
ba khó khăn còn lại cũng sẽ được giải tỏa:
- Cải cách thể chế, dân chủ hóa ở Việt Nam sẽ có tác động mạnh mẽ đến
xã hội Trung Quốc – điều mà Trung Cộng sợ nhất. Tác động đôminô chuyển
đổi thể chế ở Việt Nam đến Trung Quốc, một xã hội đang chất chứa đầy
những ung nhọt, trên đất nước bao la với gần 1,4 tỉ dân, sẽ khó lường
hết những gì sẽ diễn ra. Phong trào dân chủ của nhân dân Trung Hoa khi
xuất hiện chắc sẽ nhìn rõ bản chất xấu xa của giới cầm quyền và có những
phản ứng thích đáng. Sẽ xuất hiện những người lên tiếng phê phán đường
lối đối nội và đối ngoại phản động của Trung Cộng… Chỉ khi cả Việt Nam
và Trung Quốc chuyển sang thể chế dân chủ thực sự thì mới hy vọng xây
dựng được tình hữu nghị thân thiện, hợp tác, bình đẳng…
- Một khi Việt Nam đưa đất nước hòa nhịp vào quỹ đạo của các nước văn
minh, tiến bộ, thực sự chấp nhận những giá trị chung phổ quát của nhân
loại thì nhất định sẽ được nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng cảm, ủng
hộ mạnh mẽ; chính phủ nhiều nước sẽ sẵn lòng hợp tác, ủng hộ Việt Nam…
Một liên minh quốc tế mới để bảo vệ độc lập, tự do và phát triển đất
nước sẽ được hình thành.
- Và điều cơ bản nhất, khi đó mọi tầng lớp nhân ta ở trong và ngoài
nước sẽ xóa bỏ những rào cản tâm lý - xã hội, thật lòng đoàn kết thành
một khối thống nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Yêu nước
không còn phải gắn với “yêu Đảng Cộng sản”, “yêu chủ nghĩa xã hội”, yêu
nước không còn bị kiểm duyệt… Tổ quốc và nhân dân trên hết! Lòng yêu
nước sâu thẳm của mọi người dân Việt lại trỗi dậy, thăng hoa trước thử
thách sống còn: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh).
30/6/2014
M. V. T.