Theo tin từ một số bạn bè Trương Duy Nhất, phiên phúc thẩm vụ án
Trương Duy Nhất đã diễn ra tại tòa án tối cao Đà Nẵng sáng nay, ngày
26/6/2014. Phiên tòa bắt đầu từ 8h30, gần như không có tranh biện và kết
thúc chóng vánh vào lúc 10h kém 15. Trương Duy Nhất vẫn bị tòa phúc
thẩm tuyên y án với 2 năm tù giam theo điều 258 Bộ luật hình sự.
Không có gì lạ, không có gì bất ngờ ở các phiên tòa lấy án bỏ túi làm căn bản.
Sau đây là bài bào chữa của luật sư Trần Vũ Hải.
BÀI BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRƯƠNG DUY NHẤT TRONG PHIÊN TÒA
XÉT XỬ PHÚC THẨM NGÀY 26/6/2014 TẠI TÒA PHÚC THẨM - TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO TẠI ĐÀ NẴNG
(Những nội dung chính)
Luật sư Trần Vũ Hải
A. Tóm tắt vụ án:
Ông Trương Duy Nhất (TDN) là chủ trang web truongduynhat.vn từ
ngày 01/12/2010 (trước đó có một số trang blog khác). Trang
truongduynhat.vn đã đăng tải trên 1000 bài viết của TDN và một
số người khác cho đến khi TDN bị Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) -
Bộ Công An bắt khẩn cấp vào ngày 26/5/2013 theo điều 258 Bộ luật
Hình sự (BLHS).
Ngày 19/11/2013, Cơ quan ANĐT có bản Kết luận điều tra số
14/ANĐT và ngày 17/12/2013, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (VKSTC) có
Cáo trạng số 03/VKSTC-V2 cáo buộc TDN tội “lợi dụng các quyền
tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân” qui định tại điều 258 BLHS. Ngày
04/3/2014, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (TAND ĐN) đã đưa vụ án
ra xét xử sơ thẩm và tuyên bị cáo TDN 2 năm tù giam theo khoản 2,
điều 258 BLHS. Bị cáo TDN đã có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, kêu oan.
B. Quan điểm của luật sư Trần Vũ Hải về vụ án:
I. Việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đối với TDN chưa thực
hiện đúng theo Bộ luật Tố tụng Hình sự (BL TTHS), chưa theo đúng những
quy định của Hiến pháp 2013.
1. Cơ quan ANĐT không có thẩm quyền điều tra ông TDN về điều 258 BLHS
Điều 12 Pháp lệnh về Tổ chức điều tra hình sự 2004 (sửa
đổi năm 2006, 2009) quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan
An ninh điều tra trong Công an nhân dân:
1. Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh điều tra các
vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XI, Chương XXIV và
các tội phạm quy định tại các điều 180, 181, 221, 222, 223, 230, 231,
232, 236, 263, 264, 274 và 275 của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
2. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an điều tra các vụ án hình
sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh quy định tại
khoản 1 Điều này nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Như vậy, Cơ quan ANĐT - Bộ Công an không có thẩm quyền điều
tra các vụ án hình sự quy định tại điều 258 BLHS. Việc Cơ quan
này đã khởi tố và điều tra đối với ông TDN theo điều 258 BLHS
là trái thẩm quyền điều tra, vi phạm pháp luật nghiêm trọng,
nên Kết luận điều tra của cơ quan này đối với ông TDN không có
giá trị pháp lý.
2. Về việc bắt khẩn cấp ông TDN là không có căn cứ
TDN bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan ANĐT.
Theo quy định tại khoản 1 điều 81 BL TTHS, những trường hợp sau đây thì bị bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm
chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của
người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Trường hợp ông TDN không thuộc các đối tượng trên, do vậy việc
Cơ quan ANĐT bắt khẩn cấp đối với ông TDN là không có căn cứ,
vi phạm quy định trên của BL TTHS.
3. Về bản Kết luận Giám định (KLGĐ) ngày 04/11/2013 của Bộ
Thông tin - Truyền thông (TT-TT): Những người ký KLGĐ không phải
là những giám định viên hợp lệ theo quy định của pháp luật.
a. Kết luận điều tra của Cơ quan ANĐT và Cáo trạng
của VKSTC đều căn cứ vào KLGĐ ngày 04/11/2013 của các thành viên
giám định tập thể, Bộ TT-TT, trong đó có ông Đặng Anh Tuấn, Vụ
trưởng Vụ Pháp chế Bộ này ký, điều phối việc giám định tập
thể.
b. Theo điều 20 Luật Giám định Tư pháp:“…Bộ Thông tin và
Truyền thông… có trách nhiệm lựa chọn, lập và hằng năm công bố danh sách
người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ
việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để đáp ứng yêu cầu giám định
của hoạt động tố tụng. Danh sách kèm theo thông tin về chuyên ngành giám
định, kinh nghiệm, năng lực của người giám định tư pháp theo vụ việc,
tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được đăng tải trên cổng thông tin
điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời
gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung”.
Theo khoản 1 điều 23 Nghị định 85/2013/NĐ-CP: “Các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Luật
Giám định tư pháp có trách nhiệm rà soát, lựa chọn, lập và công bố danh
sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp
theo vụ việc trước ngày 30 tháng 11 hàng năm”.
Chúng tôi đã tra cứu trên trang điện tử của Bộ TT-TT
nhưng không thấy đăng tải danh sách giám định viên vụ việc, tổ chức
giám định viên vụ việc, do vậy ngày 12/12/2013, chúng tôi đã gửi
thư tới Bộ TT - TT để hỏi thông tin và ông Đặng Anh Tuấn đã có
văn bản số 3765/BTTTT-PC ngày 23/12/2013 thừa nhận Bộ TT-TT chưa
thực hiện theo quy định trên. Ông Tuấn cũng cho biết, khi lựa
chọn người có đủ điều kiện theo quy định của Pháp lệnh Giám
định tư pháp để giới thiệu thực hiện giám định theo trưng cầu
trong trường hợp không đủ giám định viên tư pháp, Bộ TT-TT đều
có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp công bố danh sách người giám
định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực thông tin và truyền
thông. Tuy nhiên, đến nay (ngày 24/06/2014), tra cứu trên trang điện
tử của Bộ TT-TT, chúng tôi vẫn không thấy đăng tải danh sách giám định
viên vụ việc.
c. Theo khoản 1 điều 157 BL TTHS: “Nội dung kết luận giám định phải ghi rõ: thời gian, địa điểm tiến hành giám định; họ tên, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn
của người giám định; những người tham gia khi tiến hành giám định;
những dấu vết, đồ vật, tài liệu và tất cả những gì đã được giám định, những phương pháp được áp dụng và giải đáp những vấn đề đã được đặt ra có căn cứ cụ thể”. Tuy
nhiên, tại KLGĐ không thấy nêu trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn của những người giám định. KLGĐ có liệt kê ra các phương
pháp thực hiện giám định: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu,
nhưng lại không thấy sử dụng những phương pháp này như thế nào
để thu được kết quả giám định. Như vậy, KLGĐ này không phù
hợp với quy định trên của BL TTHS nên không có giá trị pháp lý
(Chúng tôi đề nghị những người được coi là giám định viên phải
đến Tòa để trình bày về tư cách, chuyên môn và nội dung của
KLGĐ. Tại phiên tòa sơ thẩm, chúng tôi đã yêu cầu nhưng chưa được đáp
ứng, song Tòa án vẫn căn cứ vào KLGĐ để kết tội bị cáo).
4. Tòa án cấp sơ thẩm đã không đảm bảo nguyên tắc xét xử công
khai, nguyên tắc tranh tụng, không công bố các tài liệu có trong hồ sơ
vụ án tại phiên tòa xét xử.
a. Không đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai
Khoản 1 điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai.”
Điều 18 BL TTHS quy định: “Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự…”
Tại Quyết định số 04/2014/HSST- QĐ về việc đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo TDN của TAND TP. Đà Nẵng ghi “vụ án được xét xử công khai”.
Vợ bị cáo TDN đã có đơn đề nghị Tòa tạo điều kiện cho nhiều người thân,
bạn bè, đồng nghiệp tham dự phiên xử. Sáng ngày xét xử sơ thẩm, những
người này có mặt đông đủ trước tòa, nhưng đều không được vào tham dự.
Như vậy, Tòa cấp sơ thẩm đã không thực hiện đúng trình tự luật định, vi
phạm những quy định nêu trên của Hiến pháp và BL TTHS.
b. Không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án tại phiên tòa, không tạo điều kiện cho luật sư khi hỏi bị cáo.
Điều 214 BL TTHS quy định:“Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều phải được công bố tại phiên tòa”.
Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, tôi đã đề nghị Hội đồng xét xử
công bố (hoặc cung cấp cho bị cáo TDN) những tài liệu được coi là căn cứ
để buộc tội bị cáo là: 12 bài viết, đăng của TDN, Bản Kết luận giám
định. Bà thẩm phán không chấp nhận, không thực hiện quy định trên của BL
TTHS.
Điều 209, khoản 3 BL TTHS qui định: Người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Tại phiên tòa sơ thẩm, tôi
hỏi bị cáo về từng bài viết, cùng động cơ, ý thức của bị cáo khi viết, ý
kiến của bị cáo về KLGĐ. Tuy nhiên, chủ tọa chỉ cho luật sư hỏi 7 bài
trong 12 bài TDN viết, đăng, không cho luật sư hỏi tiếp những tình tiết
liên quan đến 5 bài còn lại, làm trái qui định trên của BL TTHS.
c. Không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Tại khoản 5 điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
Điều 218 BL TTHS quy định:
Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có
quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị
của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng
ý kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều
kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có
quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại
những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh
luận.
Tuy nhiên, nguyên tắc và những quy định này đã không được đảm bảo trong phiên tòa sơ thẩm. Ví dụ:
Khi vị đại diện Viện Kiểm sát thay đổi quan điểm so với bản Cáo
trạng, cho rằng những bài viết và đăng của TDN xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước (tức không thuộc đối tượng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân). Nhưng khi tôi cho rằng bị cáo không xâm phạm lợi
ích Nhà nước và đề nghị vị đại diện Viện Kiểm sát nếu giữ quan điểm như
vậy, phải xác định những lợi ích nào của Nhà nước bị xâm phạm trong vụ
án này (những lợi ích Nhà nước được quy định trong điều khoản nào của
văn bản pháp luật nào), vị đại diện Viện Kiểm sát đã không tranh luận
lại, và chủ tọa cũng không yêu cầu vị đại diện Viện Kiểm sát đáp lại,
mặc dù tôi đã đề nghị.
Phần tự bào chữa của bị cáo bị chủ tọa cắt ngang và đại diện Viện kiểm sát cũng không tranh luận lại với bị cáo.
II/ Không có căn cứ xác định 12 bài viết, đăng của TDN nêu trong
Cáo trạng xâm phạm đến lợi ích Nhà nước và không có căn cứ xác định tình
tiết nghiêm trọng đối với trường hợp TDN, nhưng tòa sơ thẩm vẫn kết tội TDN theo điều 258, khoản 2.
Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy định nghĩa về lợi ích Nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 có những quy định sau về Nhà nước:
Khoản 1 điều 2 Hiến pháp:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân..
Điều 3 Hiến pháp:
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Như vậy, có thể xác định lợi ích Nhà nước là những lợi ích vì dân,
vì dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh, vì một nền pháp
quyền (để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của
nhân dân).
12 bài viết, đăng của TDN nêu trong Bản án sơ thẩm gồm:
(1) Bài “Trong Đảng và ngoài Đảng”
Bài viết kể lại 4 câu chuyện vui có thật về đảng và đảng viên mà ông TDN trực tiếp chứng kiến, nhân ngày thành lập Đảng.
(2) Bài “Chấm điểm Thủ tướng”
Bài viết nêu lên những nhận xét của cá nhân TDN về Thủ tướng Chính phủ.
(3) Bài “Chấm điểm bộ tứ nguyên thủ”
Bài viết nêu lên những nhận xét của cá nhân TDN về 04 vị lãnh đạo:
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng.
(4) Bài “Tại sao chỉ là bóng đá”
Bài viết thể hiện quan điểm của TDN phê phán về tình trạng hiện nay của một số hội, đoàn
(5) Bài “Bóng đá và Đảng”
Bài viết nêu một số thông tin về bóng đá và đặt vấn đề lãnh đạo hội, đoàn không nhất thiết phải là Đảng viên.
(6) Bài “Việt Nam 2011”
Bài viết này, TDN đã nêu những số liệu chứng minh nền kinh tế
Việt Nam năm 2011 đã không đạt nhiều chỉ tiêu, kế hoạch đã đề
ra. Các nhà lãnh đạo và Quốc hội chưa tìm được giải pháp để khắc phục
vấn đề này.
(7) Bài “Chất lượng Chính phủ quá tệ”
Bài viết tổng hợp số liệu thông qua một cuộc khảo sát các bạn đọc trên trang truongduynhat.vn để đánh giá chất lượng Chính phủ.
(8) Bài “Khi Chủ tịch nước tập làm văn”
Bài viết nêu nhận xét của cá nhân TDN về một bản thông điệp của Chủ tịch nước.
(9) Bài “Từ Đồng Nọc Nạn đến Đoàn Văn Vươn”
Bài viết là những cảm tưởng, suy nghĩ của TDN về vụ Đoàn Văn Vươn và vụ Đồng Nọc Nạn.
(10) Bài “Tổng Bí thư và Thủ tướng nên ra đi”
Bài viết là những nhận xét, suy nghĩ của TDN về tình hình kinh tế, chính trị của đất nước.
(11) Bài “Bỏ phiếu cùng Quốc hội”
Bài viết đưa ra số liệu thống kê trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm
cùng quốc hội qua “thùng phiếu điện tử” trên website Một góc nhìn khác.
(12) Bài “Những chiếc lồng son”
Bài viết này của một tác giả ký tên Nguyễn Dương gửi đến website
truongduynhat.vn, có nội dung là những cảm nghĩ của tác giả về nghề báo,
về thực trạng tại các bệnh viện, trường học….
Không có căn cứ để xác định 12 bài này xâm phạm đến lợi ích Nhà nước và chính bản án sơ thẩm cũng không nêu được căn cứ nào.
VKS truy tố TDN theo khoản 2, điều 258 (phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng), nhưng không nêu căn cứ nào để xác định tình tiết nghiêm trọng. Ngay trong Bản án sơ thẩm cũng không nêu căn cứ nào để chứng minh về tình tiết nghiêm trọng.
Rõ ràng, Tòa sơ thẩm đã tùy tiện kết tội bị cáo theo điều 258, khoản 2, BLHS mà không chứng minh được hành vi của bị cáo xâm phạm lợi ích nhà nước, thuộc trường hợp nghiêm trọng.
Thực tế 12 bài viết, đăng này là những ý kiến của bị cáo (và 1 bạn
đọc khác), đánh giá về tình hình đất nước, một số cơ quan nhà nước, nhận
xét về lãnh đạo Đảng, nhà nước, thực hiện quyền tự do ngôn luận, quyền
giám sát của công dân. Những quyền này được Đảng, nhà nước khuyến khích,
pháp luật tôn trọng và bảo đảm, để góp phần xây dựng một nhà nước pháp
quyến dân chủ.
C. Đề xuất của luật sư Trần Vũ Hải đề nghị Tòa án giải quyết vụ án:
1. Xác định Cơ quan ANĐT đã điều tra không đúng thẩm
quyền, bắt khẩn cấp TDN không có căn cứ, Kết luận điều tra
không có giá trị pháp lý.
2. Những người ký vào KLGĐ không phải là những giám
định viên hợp lệ, nội dung KLGĐ không phù hợp BL TTHS, KLGĐ không
có giá trị pháp lý.
3. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chưa công khai và chưa đúng nhiều quy định theo BL TTHS, chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng.
4. Xác định 12 bài viết, đăng của TDN nêu trong Bản án sơ
thẩm không xâm phạm lợi ích nào của Nhà nước, không có căn cứ xác định
thuộc trường hợp nghiêm trọng theo khoản 2, điều 258 BLHS.
5. Xác định những bài viết của TDN thể hiện TDN
thực hiện quyền tự do ngôn luận, quyền giám sát của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (điều
53, 69 Hiến pháp 1992 tương ứng các điều 28, 25 Hiến pháp 2013), phù
hợp với điều 19 khoản 2 và khoản 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị 1966 (Việt Nam tham gia năm 1984). Những quan điểm cá
nhân của TDN có thể đúng, có thể chưa chính xác nhưng TDN có
quyền đưa ra và giữ quan điểm của mình, những người khác có
quyền đánh giá, nhận xét, tranh luận về quan điểm của TDN để
thể hiện Việt Nam là một nước thực sự dân chủ, xứng đáng là
thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc.
6. Trương Duy Nhất không phạm tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân (điều 258 BLHS), ông phải được trả tự do ngay tại phiên tòa.