Thomas A. Bass
Phạm Nguyên Trường dịch
Phạm Nguyên Trường dịch
KHÔNG ĐÁNG BỊ GIẾT
Qui trình kiểm duyệt ở Việt Nam được nhà báo Phạm Đoan Trang viết trên blog vào tháng 6 năm 2013 và được tạp chí The Irrawaddy Magazine trích
đăng một số đoạn. Phạm Đoan Trang giải thích là hàng tuần, “ở Hà Nội,
Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và ở Thành phố Hồ Chí
Minh thì bộ phận phía Nam của ban này lại triệu tập một cuộc họp ‘định
hướng’ với lãnh đạo của những tờ báo lớn trong nước”.
“Không phải là ngẫu nhiên khi tất cả các lãnh đạo báo đều là đảng
viên. Quan chức Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an cũng có mặt… Tại
các cuộc họp này, ai đó ở Ban Tuyên giáo sẽ đánh giá hoạt động của các
tờ báo trong tuần vừa qua, biểu dương tờ nào biết phục tùng, khiển trách
và đôi khi phạt những tờ nào đi chệch hướng.”
Những chỉ đạo cho “các đồng chí biên tập, lãnh đạo báo chí” tại các
cuộc họp này đôi khi cũng bị rò rỉ ra giới blogger (các diễn đàn trực
tuyến, nơi người Việt ngày càng tìm đến để được thông tin nhiều hơn). Ở
đây người ta biết rằng không được đưa tin về các ứng cử viên chính trị
độc lập, thí dụ như nữ diễn viên Hồng Ánh; không được gọi nhà hoạt động
bất đồng chính kiến Cù Huy Hà Vũ, người bị cáo buộc “tuyên truyền chống
nhà nước”, là “Tiến sĩ Vũ”. Thông tin về sự cố khách du lịch nước ngoài
chết trong một vụ đắm tàu ở Hạ Long, về quyết định xây nhà máy điện hạt
nhân của chính phủ Việt Nam, về việc Trung Quốc khai thác bauxite từ một
mỏ khoáng sản lớn ở dãy Trường Sơn cũng bị ỉm đi.
Các cuộc giao ban định hướng hàng tuần là những cuộc họp bí mật và
những cuộc thảo luận tiếp theo trong tuần được thực hiện trực tiếp hoặc
qua điện thoại. “Do không có bằng chứng vật chất nào về những định hướng
như thế, cho nên khi bị chỉ trích là bịt miệng báo chí về chuyện này
chuyện nọ, các quan chức của Bộ Thông tin Truyền thông có thể trả lời
một cách rất nghiêm túc rằng Việt Nam bị ‘các thế lực thù địch’ vu
khống, bôi nhọ”, Phạm Đoan Trang viết. Nhưng những lời phủ nhận đó đã
thành bức xúc khi một băng ghi âm bí mật của một trong những cuộc họp
như thế được đài BBC phát vào năm 2012.
Ban Tuyên giáo coi các phương tiện truyền thông Việt Nam là “tiếng
nói của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội”. Cách tiếp
cận này được quy định trong Luật Truyền thông của Việt Nam, trong đó có
yêu cầu các phóng viên “tuyên truyền đường lối và chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, và những thành tựu của đất nước và thế giới về
văn hóa, thành tựu về khoa học và kỹ thuật” của Việt Nam.
Phạm Đoan Trang kết luận bài báo của mình với một nhận xét châm biếm.
“Việt Nam không nằm trong số các nước nguy hiểm đối với nhà báo,” cô
nói. “Nhà nước không cần phải giết nhà báo để có thể kiểm soát truyền
thông, bởi vì nói chung, các nhà báo có thẻ của Việt Nam không được phép
làm việc gì để đến mức phải bị giết.”
Một người nữa am hiểu về kiểm duyệt tại Việt Nam là David Brown, một
cựu nhân viên ngoại giao, nay quay lại Việt Nam làm biên tập viên tiếng
Anh cho một tờ báo trực tuyến của Việt Nam. Trong một bài báo đăng trên Asia Times
vào tháng Hai năm 2012, Brown mô tả cách thức “Tổng biên tập và lãnh
đạo xuất bản kéo đến cuộc họp với Bộ Thông tin và Ban Tuyên giáo của
Đảng vào thứ Ba hàng tuần, nơi họ và các đồng nghiệp ở những tờ khác
được cảnh báo về “những vấn đề nhạy cảm.”
Brown mô tả những “lĩnh vực không được chạm tới”, tức là những đề
tài mà báo của ông không được phép đề cập. Những đề tài cấm kỵ gồm tin
tức không hay về Đảng Cộng sản, về chính sách của chính phủ, chiến lược
quân sự, quan hệ với Trung Quốc, quyền của các dân tộc thiểu số, nhân
quyền, dân chủ, những lời kêu gọi đa nguyên chính trị, tin tức ám chỉ
các sự kiện cách mạng ở những nước cộng sản khác, phân biệt giữa Bắc và
Nam, và những câu chuyện về người tị nạn Việt Nam. Một trong những đề
tài mà tờ báo này được phép nói là nạn tội phạm, và báo chí ở
Việt Nam cũng chẳng hiền lành gì, Brown nói. Trong thực tế, các nhà báo
có thể là những người khá hữu ích cho chính phủ bằng cách phơi bày những
vụ tham nhũng và hành động phi pháp của các quan chức cấp thấp. “Nhằm
duy trì lượng độc giả, họ tích cực theo đuổi các vụ bê bối, điều tra các
‘tệ nạn xã hội’ và đấu tranh cho người bị áp bức. Tham nhũng đủ mọi
loại, ít nhất là ở các địa phương, cũng là một món được chuộng.”
Một chuyên gia nữa về kiểm duyệt ở Việt Nam là cựu phóng viên BBC
Bill Hayton, bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 2007 và vẫn còn bị cấm nhập
cảnh. Trên tạp chí Forbes năm 2010,
Hayton đã viết về những hạn chế đối với hoạt động chính trị ở Việt Nam,
Điều 4 của Hiến pháp tuyên bố: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”. Nói cách khác, Đảng muốn gì thì được nấy và Đảng
ghét gì thì ngăn chặn cái ấy. “Ở Việt Nam không có những phương tiện
truyền thông độc lập, hoạt động theo pháp luật”, Hayton nói. “Mọi ấn
phẩm đều là của một cơ quan nào đó của nhà nước hay của Đảng Cộng sản.”
Để chúng ta không nghĩ rằng nền văn hóa Việt Nam đã đông cứng ngay
tại chỗ, Phạm Đoan Trang, Brown, Hayton và những nhà quan sát khác nhắc
nhở rằng tuy vậy các quy tắc vẫn liên tục thay đổi và được diễn giải
lại. “Việt Nam… là một trong những xã hội năng động và nhiều khát vọng
nhất trên hành tinh này”, Hayton nói. “Đó là nhờ sự cân bằng kỳ quặc
giữa kiểm soát và buông lỏng của Đảng, nó được thể hiện qua việc phá rào”.
Vì vậy, nếu “không chống Đảng hay chĩa mũi quá sâu vào những vụ tham
nhũng của các quan chức cấp cao thì tổng biên tập và nhà báo có thể được
Đảng nâng đỡ”, ông nói.
Trong một số trường hợp, thậm chí các nhà báo nhúng mũi sâu hơn cũng
có thể được nâng đỡ, tùy vào việc ai là người kiểm soát sự rò rỉ tin
tức và nhằm mục đích gì. Quá trình kiểm soát sự rò rỉ có kiểm soát này
được Geoffrey Cain, một người theo dõi hiện tượng kiểm duyệt ở Việt Nam,
trình bày trong luận án thạc sĩ, hoàn thành năm 2012 tại Viện Nghiên
cứu phương Đông và châu Phi của Đại học London. Cain viết rằng ở Việt
Nam, Đảng Cộng sản sử dụng các nhà báo và những người cầm bút khác như
một “lực lượng cảnh sát phi chính thức”. Họ giúp chính quyền trung ương
giữ cho các quan chức địa phương tuân thủ đường lối, hạn chế việc nhận
hối lộ và kiểm soát những khía cạnh khác của đời sống xã hội mà nếu
không thì sẽ không thể nào nắm được. Đây là một kiểu “độc tài mềm dẻo”,
với đặc điểm gồm “hàng loạt hành động xuôi ngược đủ kiểu, và ‘tình trạng
mập mờ được sử dụng “như một công cụ để thống trị”. Hiện tượng mà ở
Việt Nam thường được mô tả như một cuộc chiến giữa “phe cải cách” và
“phe bảo thủ” thực ra là phương pháp khiến cái xã hội ngày càng hướng
tới thị trường này có thể cùng lúc “vừa áp bức, vừa đáp ứng”. Theo cách
giải thích này, các nhà báo và blogger đã tự biến mình thành “cảnh sát
phi chính thức”, giúp chính phủ kiềm chế những kẻ trục lợi của thị
trường tự do.
Những cơ chế “hợp pháp” cho việc bắt giữ các nhà báo và các blogger,
những người vượt qua ranh giới hoặc vô tình bị rơi vào khu vực mà những
qui định thường xuyên thay đổi coi là có tội, trong đó có Điều 88C Bộ Luật Hình sự, cấm “Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và Điều 79 Bộ Luật Hình sự,
cấm “hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân”. Người ta có thể bị bắt vì những nguyên nhân khác, từ “trốn
thuế” đến “ăn cắp bí mật quốc gia và bán cho người nước ngoài”. (Đây là
tội được gán cho nhà văn Dương Thu Hương khi bà gửi một bản thảo cuốn
sách của mình cho một nhà xuất bản ở California.)
Những biện pháp đàn áp khác nằm trong Luật Báo chí năm 1990 (sửa đổi năm 1999).
Luật này bắt đầu bằng lời tuyên bố: “Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời
sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội” (Điều 1). “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, tập thể và công dân” (Điều 2). Sau đó là Luật Xuất bản năm 2004,
cấm “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
cấm “truyền bá tư tưởng phản động” và “tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà
nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại”.
Rồi đến một loạt các điều luật và quy định trong các nghị định và “thông tư” khác nhau, trong đó có Nghị định số 56 về “Hoạt động văn hoá – thông tin”, cấm “phủ nhận thành tựu cách mạng”, Nghị định số 97
về “quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử
trên Internet”, cấm sử dụng internet nhằm “làm tổn hại đến uy tín của cá
nhân và các tổ chức”, Thông tư số 7 của Bộ Thông tin,
giới hạn các blog vào “những thông tin mang tính chất cá nhân” và yêu
cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải thực
hiện chế độ báo cáo định kì về người sử dụng “sáu tháng một lần và báo
cáo đột xuất theo yêu cầu”, và Dự thảo Nghị định năm 2012 về “Quản lý,
cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng”, trong đó
yêu cầu các công ty nước ngoài cung cấp thông tin bằng tiếng Việt phải
“lọc và loại bỏ những nội dung bị cấm”.
Dự thảo năm 2012 này được thông qua vào năm sau, đó là Nghị định 72,
cấm việc truyền bá các “thông tin tổng hợp” trên trang thông tin điện
tử cá nhân, giới hạn các trang này vào việc “trao đổi thông tin của cá
nhân” và khiến các cá nhân sử dụng nó để chuyển tải tin tức hoặc bình
luận về các sự kiện chính trị thành bất hợp pháp. Lên án đạo luật này là
“vô nghĩa và vô cùng nguy hiểm”, tổ chức Phóng viên Không Biên giới,
trong một thông cáo báo chí tháng 8 năm 2013, nói rằng Nghị định 72 chỉ
có thể được thực thi với “sự giám sát thường xuyên và trên diện rộng của
chính phủ đối với toàn bộ hệ thống internet… Mục tiêu hầu như không che
đậy của Nghị định này là bằng mọi giá phải giữ được quyền lực của Đảng
Cộng sản, biến tin tức và thông tin thành độc quyền của nhà nước.”
Việt Nam vay mượn khá nhiều kỹ thuật theo dõi Internet từ Trung
Quốc, lân bang phía Bắc. Theo Văn bút Quốc tế, Trung Quốc đã bắt giam
hàng chục tác giả, trong đó có ông Lưu Hiểu Ba, người được trao Giải
Nobel Hòa bình. Tương tự Trung Quốc, Việt Nam nằm gần cuối bảng xếp hạng
tự do báo chí. Tổ chức Freedom House xếp truyền thông Việt Nam vào hạng
“không tự do”. Năm 2014, tổ chức Phóng viên Không Biên giới xếp Việt Nam đứng thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí (giữa Iran và Trung Quốc). Năm 2013, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo xếp Việt Nam đứng thứ năm
trong số những nước bắt giam nhiều nhà báo nhất, ít nhất mười tám nhà
báo đã bị cầm tù. Gần đây, một cuộc đàn áp tàn bạo các blogger và những
người biểu tình chống Trung Quốc đã đưa hàng chục người vào tù, với
những bản án kéo dài tới mười hai năm. Những người hoạt động vì dân chủ
và nhân quyền, các nhà văn, blogger, nhà báo, những người phản đối chính
sách đất đai và những người tố cáo, tất cả đều rơi vào chiếc lưới toàn
trị của Việt Nam.
(Còn tiếp 2 kì)
Bản tiếng Việt “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam”
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass