Theo blog Hiệu Minh
HM Blog. Lấy từ comment của bác TamHmong trong bài viết của tác giả Nguyễn Quang Thiều. Cảm ơn bác TamHmong.
Thấy nhiều phản hồi về nhân cách của người Việt trong bài viết của
tác giả Nguyễn Quang Thiều và đọc comment của chị TM (Gordon Thúy), tôi,
còm sỹ TamHmong, muốn có đôi lời.
Trong comment, chị TM viết “Khi rời VN ra nước ngoài sinh sống tôi
không hề mang theo hành trang nhân cách cồng kềnh nào cả, không tự tôn
cũng không tự ti, và không hề trải nghiệm bất ổn nhân cách.
Sang xứ người lập nghiệp, tôi chỉ biết nhớ lấy lời cha mẹ và thầy cô
dậy dỗ lúc còn bé: sống lương thiện, làm việc cần mẫn, chịu khó học hỏi,
ráng vươn lên bằng nỗ lực cá nhân, noi gương tốt, tránh không làm điều
gì xấu xa có thể tổn hại đến thanh danh cá nhân và dân tộc”.
Tâm sự của người Việt ở Nga
Trước kia tôi cũng nghĩ và hành động đơn giản như chị TM. Tuy nhiên,
trong khoảng mười lăm năm gần đây, tôi bắt đầu suy nghĩ về khả năng hóa
rồng của VN như Hàn Quốc. Cách đây vài năm, tôi dần nhận ra, đó là mong
ước hão huyền, rồi VN sẽ thua Campuchia, quốc gia láng giềng mà người
Việt thường nhìn từ chiếu trên.
Sống và làm việc ở Nga một thời gian khá dài, tôi cũng nhìn lại diễn
biến trong thái độ của người Nga đối với cộng đồng người Việt ở xứ bạch
dương, một nơi mà tới 99,99% dân miền Bắc VN đến làm ăn. Tôi cũng thử
quan sát về sự biến đổi của người Việt đối với nước Nga, để hiểu thêm về
con người Việt. Dường như diễn biến đã trải qua đủ các sắc thái và đến
từ cả hai phía.
Cho đến tận những năm đầu thập kỷ 1990, người Việt vẫn được người Nga
khá tôn trọng và cảm tình, ít nhất là so với người Trung Quốc, vì người
Việt có thu nhập khá cao so với mặt bằng xã hội Nga thời đó.
Sau đảo chính của Elsin (1991), nước Nga đứng trước ngã rẽ của lịch
sử, họ lúng túng bước ra với thế giới, chẳng biết buôn bán hay kinh tế
thị trường là gì, bởi 70 năm bao cấp quan liêu đã làm mòn ý chí của
người muốn vươn lên.
Trong khi đó, người Việt như những con “ếch” có bản năng sinh tồn
mạnh nhảy qua chỗ rẽ nhanh hơn trong khi “trâu ngưạ” Nga đứng thẫn thờ.
Ngoài ra, người Việt tính cách cởi mở, khá phóng khoáng và sống “hiền
lành”. Vì thế sự cảm tình là đương nhiên.
Nhưng với thời gian, tính cách người Nga trỗi dậy, bề dày lịch sử và
văn hóa phong phú, cộng với nền kinh tế thị trường đã làm quốc gia này
thay đổi chóng mặt. Không thể theo kịp với thời cuộc, người Việt ở đây
bị bắn ra khỏi lề của sự phát triển.
Hiện nay, có thể nói người Việt ở Nga đang đánh đổi tất cả để kiếm
tiền, vất vả mưu sinh nhưng vì trình độ có hạn, những gì thuộc về láu
cá, buôn bán vặt, không giữ uy tín, nên họ thuộc cộng đồng có thu nhập
thấp nhất trong xã hội Nga và thường kinh doanh các lĩnh vực mà các cộng
đồng khác ít chịu làm.
Ngày xưa người Việt từng thuê người Nga đứng bán hàng vặt từ áo váy,
son rởm, đến cửu vạn máy tính, nhưng nay chuyện đó đã thành dĩ vãng.
Khả năng và ý muốn hội nhập cũng là thấp nhất trong các cộng đồng
nhập cư. Các bạn trẻ VN khá hòa đồng với học sinh phổ thông bản xứ,
nhưng khi lên đại học thì co cụm lại và hầu như chỉ giao lưu trong cộng
đồng VN, kể cá các bạn sinh trưởng ở Nga và có quốc tịch Nga.
Số bạn trẻ VN tốt nghiệp đại học đủ tự tin để đi xin việc ở các Cty
thuần Nga có pháp nhân Nga và người Nga làm chủ, có thể đếm trên đầu
ngón tay.
Nhìn chung, cộng đồng người Việt ở Nga đã tụt hậu so với các cộng
dồng dân tộc khác và người Nga một cách ghê gớm, ra đường rộng “éch”
không thể đua với “trâu ngựa” đươc.
Hơn nữa, trong con mắt của phần đông người bản xứ, người Việt cũng
không hề “hiền lành’’, gây gổ, trộm cắp, đánh nhau và tỏ ra ít thân
thiện hơn xưa.
Thật đáng buồn, trong các phẩm chất truyền thống của người Việt lẽ ra
nhiều điều tốt đẹp, thì người bản xứ chỉ thấy cộng đồng này có phẩm
chất chịu đựng nhẫn nhục vô biên
Thật dễ hiểu, khi người bản xứ đã nhìn như vậy thì sự phân biệt đối
xử là đương nhiên. Điều đáng buồn, phần đông người Việt không hiểu tại
sao lại bị người Nga đối xử như vậy.
Thái độ của người Việt ở Nga đối với người Nga trong hơn hai chục năm
qua cũng qua nhiều cung bậc. Đi từ con mắt “ngạo mạn’’ của “ếch Việt
tinh khôn” nhìn “trâu ngựa Nga đờ đẫn” của những năm 90, người Việt lúc
đó thường gọi người Nga là “ngố và heo” vì lừa dễ, đến cái nhìn ganh tỵ,
tự ty và cách biệt đối với người Nga hiện nay.
Lũy tre làng và văn minh lúa nước
Tóm lại, theo tôi câu chuyện về sự tụt hậu của người Việt ở Nga có lẽ
cũng tương tự câu chuyện của VN so với khu vực và thế giới. Nguyên nhân
sâu xa theo tôi không hoàn toàn là vấn đề nhân cách như anh NQT nhận
định, mà có thể từ sự tụt hậu về tư duy.
Nhìn sâu vào lịch sử, văn hóa VN có xuất xứ từ đồng bằng sông Hồng,
hay còn gọi là văn minh lúa nước, nơi có điều kiện thiên nhiên khắc
nghiêt, nóng ẩm, lũ lụt thường trực, đất đai không mấy phì nhiêu. Kinh
tế nông nghiệp, bờ thửa tiểu nông manh mún, đủ ăn là quí. Hệ thống làng
xã với lũy tre là biên giới giúp không bị người Hán đồng hóa trong 1000
năm Bắc thuộc, nhưng tư duy ấy không thuận lợi cho phát triển thương mại
và thành thị thời hiện đại.
Người Nga có bề dày về lịch sử, văn hóa, kiến trúc cả thế giới ngưỡng
một. Kể ra còn nhiều quốc gia khác nữa, khi đựợc giải phóng về trí tuệ,
bỗng họ thay đổi lạ thường.
Cho đến đầu thế kỷ 20, Thăng Long – Hà Nội chỉ có vài ba chục ngàn
dân. Để so sánh thời nhà Đường bên TQ vào thế kỷ 8-9, kinh đô Trường An
đã có tới hai triệu dân. Nghĩa là xã hội VN truyền thống chưa có môi
trường thuận lợi cho văn học, âm nhạc, hội hoa, kiến trúc và nghệ thuật
sân khấu đỉnh cao. Cũng chẵng có tầng lớp thương lưu theo đúng nghĩa,
thì làm sao có chỗ cho sự phát triển tư tưởng triết học.
Một ngàn năm Bắc thuộc đã đẫn đến sự ảnh hưởng tư tưởng Trung Hoa,
cộng với môi trường văn minh lúa nước đã tạo nên một VN có tư duy CHẮP
VÁ, NỬA VỜI, HỜI HỢT, DỂ THỎA HIỆP DUNG HÒA, và có phần DUY NGÃ (chủ
quan, cảm tính, lấy mình làm chuẩn).
Cùng trong hệ văn hóa Trung Hoa truyền thống, nhưng thành tựu văn hóa
truyền thống VN khó bằng văn hóa truyền thống Nhật Bản và Hàn Quốc.
Kết quả là văn hóa phi vật thể VN hầu như không có khả năng lan tỏa
ra ngoài biên giới VN. VN cũng rất ít có sản phẩm hoàn hảo có khả năng
làm chuẩn mực cho các dân tộc khác. Người VN cũng ít khi chọn chuẩn cao
ngoài biên giới VN để phấn đấu, thường chí cần hơn “ông hàng xóm cách bờ
dậu” là đủ.
Chuyên môn hóa sản xuất trong xã hội ở múc thấp và xã hội cũng chưa
thực sự tôn vinh ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP, đó là làm nghề gì cũng phải có sản
phẩm chất lượng được xã hội thừa nhận.
Đôi lời cuối
Hành trang lịch sử của Việt Nam cũng có, nhưng nên đau xót mà nhận
rằng, cũng chỉ vài thứ có thể đồng hành vào thế kỷ 21. Thông minh cần cù
chưa đủ, mà cần phá cái tư duy lũy tre và ao làng mới mong bằng người.
Để không bị tụt hậu, nên theo tư duy luật pháp, kinh tế, theo kiểu
phương Tây như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Họ bỏ xa chúng ta là vì
biết chọn được những tư duy phát triển tinh hoa của nhân loại.
Một chuyện nhỏ như tôn vinh ĐAO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP là nền tảng của sự
đồng thuận và tin cậy trong xã hội. Nhật Bản là một điển hình về chất
lượng mang tính tự hào dân tộc rất cao.
Những CHUẨN MỰC PHỔ QUÁT THẾ GIỚI như dân chủ, nhân quyền, tự do báo
chí, minh bạch, luật pháp thượng tôn, cần được áp dụng cho mọi xã hội kể
cả VN, để từ đó kéo theo nền tảng văn hóa, giáo dục thay đổi.
Hy vọng, mấy chục năm nữa, thế hệ tương lai Việt rong ruổi trên mọi
nẻo đường như TamHmong hôm nay, không phải băn khoăn về sự tụt hậu hay
nhân cách của chính mình.
Chúc các bác Hang Cua mọi điều tốt lành.
Còm sỹ TamHmong