Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm (Danlambao)
- Từ ngày lên ngôi vào tháng 11 năm 2012, tới nay đã được 2 năm, Tập
Cận Bình bắt đầu một “Chương trình cải cách rộng lớn”, đi đến việc thanh
trừng 182 000 công chức Nhà nước, Đảng và Quân đội, trong đó có 40
người Thứ trưởng và nhiều Tướng tá.
Có người cho rằng chương trình cải cách này sẽ thành công. Nhiều ý kiến
khác thì hoàn toàn ngược lại, cho rằng không thành công mà còn có thể đi
đến sự sụp đổ của chế độ.
Tập Cận Bình và chương trình cải cách của ông
Tập Cận Bình sinh năm 1953, tại Bắc Kinh, nhưng quê quán thực của ông ở
Thiểm Tây, cha là Tập Trọng Huấn (1913-2002), là một Phó Thủ tướng trước
đây. Tập Cận Bình là người ít nói, ít phát biểu, có nhiều người còn cho
ông là người không có lập trường rõ rệt. Ông từng làm Bí thư thành phố
Thượng Hải, được Giang Trạch Dân chọn lựa và hậu thuẫn để trở thành
người kế thừa của Hồ Cẩm Đào với ý định trong tương lai, khi họ Đào
không còn quyền, ông lên ngôi, thì họ Giang dễ khống chế ông.
Tập Cận Bình từng bước trở thành Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng Cộng
sản Trung cộng khóa 15, Ủy viên Chính thức Trung ương Đảng các khóa 16,
17. Tháng 10 năm 2007, tại Đại hội 17 Đảng Cộng sản Trung cộng, được bầu
làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương, được
phân công kiêm nhiệm Hiệu trưởng Trường Đảng Trung ương. Ngày 15 tháng 3
năm 2008, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu làm Phó Chủ tịch
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau đó lần lượt vào năm 2010 ông được bầu vào chức Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung ương,
năm 2012 trở thành Tổng Bí thư BCH Trung ương, Chủ tịch Quân ủy Trung
ương. Ngày 14 tháng 3 năm 2013, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, kết thúc quá trình chuyển giao quyền lực của đảng
cộng sản Tàu.
Có lẽ tất cả những kế hoạch, dự đoán của họ Giang từ ngày họ Tập lên ngôi đều trở nên mây khói?
Chương trình cải cách của Tập Cận Bình
Tháng 8/2013, họ Tập ra Văn kiện được mang tên là “Văn kiện số 9”, trong
đó có 7 cái “Không”, bắt buộc đảng viên, công chức từ dưới lên trên
phải tuân theo. Đó là: Không được tự do phát biểu ý kiến riêng ngoài ý
kiến chính thức của đảng, không chấp nhận ảnh hưởng từ nước ngoài, không
chấp nhận tư tưởng tự do, dân chủ, tính phê bình, và không chấp nhận tư
tưởng độc lập.
Thêm vào đó, để ngăn cản sự trốn chạy ra nước ngoài của cán bộ, họ Tập
thâu hồi tất cả những hộ chiếu của họ, thành lập ủy ban gồm 3 người,
kiểm soát lẫn nhau, nếu có 1 trong 3 người xuất ngoại “không chính
đáng”, thì 2 người còn lại phải vạ lây. Họ Tập mệnh danh chương trình
cải cách này là một chương trình “Trẻ trung hóa vĩ đại”, dựa trên giấc
mơ của Trung cộng, niềm tự hào của dân tộc, dựa trên chủ nghĩa dân tộc
cực đoan. Cũng từ đó, họ Tập đã tập trung tất cả quyền hành vào trong
tay mình, từ Chủ tịch nước, Tổng bí thư, Chủ tịch Quân ủy hội, Chủ tịch
Hội đồng an ninh quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Kinh tế quốc gia, Chủ tịch
Ủy ban thanh lọc Nhà nước v.v...
Họ Tập đã thanh trừng từ trên xuống dưới, bắt đầu phong trào “Giết hổ và
đập ruồi”, loại khỏi đảng, khỏi Nhà nước 182 000 công chức từ thấp đến
cao, bắt đầu bằng vụ đưa ra tòa Bạc Hy Lai, rồi khai trừ Từ Tài Hậu,
nhân vật thứ nhì trong Quân Ủy hội ra khỏi đảng vào ngày 30/06/2014.
Ngày 29/7/2014, Đảng cộng sản Tàu tuyên bố điều tra Chu Vĩnh Khang, nhân
vật thứ ba, trong đảng.
Đó là sơ qua một vài vụ thanh trừng to lớn.
Ngoài ra họ Tập còn đàn áp dã man dân Duy Ngô Nhĩ, dân phần lớn theo đạo
Hồi ở vùng tây bắc, trấn áp Tây Tạng, gửi thông điệp cứng rắn đối với
Đài Loan, dẹp tất cả những hy vọng của dân Hồng Kông mong muốn có một
cuộc bầu cử tự do trong tương lai, theo kiểu dân cử, dân bầu, chứ không
phải là một cuộc bầu cử “Đảng cử, dân bầu”, được áp đặt từ Bắc Kinh.
Nhưng thật ra bản chất của cuộc cải cách này là một cuộc cải cách giật
lùi hay đúng hơn chỉ là một cuộc tranh quyền, thâu tóm quyền hành vào
tay một người, trái lại nguyên tắc lãnh đạo tập thể, để lại từ hồi Đặng
Tiểu Bình, và tương đối được tuân thủ và áp dụng bởi Giang Trạch Dân và
Hồ Cẩm Đào.
Độc tài từ cổ chí kim trên thế giới là một chế độ cai trị dân qua cái
loa, cái còng và cái súng, nhất là với 2 chế độ độc tài phát xít và cộng
sản. Cái loa có nghĩa là khai thác tối đa nghệ thuật tuyên truyền. Kiểu
nói như Goebel, Bộ trường Tuyên truyền của Hitler: “Một sự việc dù
không phải là sự thật, nhưng chúng ta nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Lúc
đầu dân còn bán tín, bán nghi, sau đó không nghi nữa và cuối cùng cho đó
là sự thật.” Bưng bít thông tin, chỉ cho dân nghe những thông tin, dù
không phải sự thật, nhưng có lợi cho chế độ.
Với Hitler thì khơi dậy chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bài trừ Do Thái,
đưa ra lý thuyết không có một tý gì là khoa học, theo đó “Chủng tộc
Aryen là chủng tộc tinh khiết nhất, tài giỏi nhất. Đó là chủng tộc của
dân Đức, xứng đáng để thống trị thế giới”. Cộng sản thì khơi dậy những
bản năng xấu xa, ghen tị của con người, qua lý thuyết bạo động lịch sử,
đấu tranh giai cấp, xóa bỏ tất cả những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
được truyền thừa hàng ngàn năm lịch sử nơi con người. Thêm vào đó cả 2
chế độ phát xít và cộng sản đều vẽ ra một thiên đàng, một bên là thế
giới thiên đàng của dòng giống Aryen, dân tộc Đức. Bên kia là thiên đàng
cộng sản.
Cai trị dân với cái còng và cái súng là khủng bố, bỏ tù những thành phần
không cùng chính kiến, đường lối với họ, và nếu sự chống đối trở nên có
ảnh hưởng mạnh mẽ thì sẽ bị vu khống, thủ tiêu và hãm hại.
Ngày nay, ở một vài nước cộng sản còn lại, vì kinh nghiệm cộng sản đã
thất bại ê chề sau hơn 70 năm áp dụng, thì họ trở về chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, kiểu phát xít.
Từ đó chúng ta xét bản chất thực của chương trình cải cách Tập Cận Bình:
Đó là chương trình cải cách giật lùi, trở về thời quân chủ phong kiến,
quyền hành tập trung vào tay một người, ngày xưa là ông vua, ngày nay là
Tổng Bí thư. Hiện nay họ Tập nắm hết trong tay mọi quyền hành.
Vì vậy bản chất thật cuộc cải cách của họ Tập chỉ là một cuộc tranh
quyền mà ngày hôm nay người ta thấy rõ là giữa Giang Trạch Dân, cựu Tổng
Bí thư, được phe nhóm tài phiệt Thượng Hải và Hồng Kông ủng hộ và phe
nhóm Tập Cận Bình, được mang nhãn hiệu là chống tham nhũng, trẻ trung
hóa và trong sạch hóa chế độ, thực hiện giấc mơ Trung cộng.
Người Tàu có câu châm ngôn “Giết gà để dọa khỉ”, thực chất là họ Tập
giết cả gà lẫn khỉ, khi chúng không theo mình, và dung túng cả gà lẫn
khỉ, khi chúng theo mình. Hỏi rằng ở nước Tàu hiện nay, trong những
người đảng viên, từ cấp dưới lên đến ngay Tập Cận Bình, có ai là không
tham nhũng. Cũng như họ Tập ra lệnh thâu hồi tất cả những người có hộ
chiếu ra nước ngoài, lập ra tổ 3 người trong cơ quan đảng và nhà nước để
kiểm soát lẫn nhau về việc xuất ngoại. Trong khi đó thì chính con gái
họ Tập hiện nay đang học ở Hoa Kỳ, tại trường đại học Harvard. Việc
thanh trừng 182000 nhân viên đảng và nhà nước đi đến chỗ ai cũng sợ, có
những cơ quan nhà nước, người cầm đầu bị thanh trừng, người dưới không
dám lên kế vị, vì ai cũng tham nhũng, sợ bị chĩa mũi dùi vào mình.
Họ Tập không những trở về thời quân chủ phong kiến, mà còn trở về thời
kỳ xấu xa nhất của chế độ cộng sản Tàu, thời kỳ “Cách mạng Hồng vệ
binh”, khơi dậy lòng hận thù của của những giai tầng xã hội, đề cao tinh
thần dân tộc cực đoan. Tập Cận Bình hiện nay là hình ảnh những tên bạo
chúa tàn ác nhất trong lịch sử nhân loại, như vua Kiệt, Tần Thủy Hoàng,
Mao Trạch Đông của Tàu, như Néron, Staline của thế giới, cho rằng: “Kẻ
nào không theo Ta, thì có nghĩa là chống Ta”, “Ta chính là Nhà nước và
Pháp luật”.
Ngày xưa vua cho rằng mình thay trời để trị dân, ngày hôm nay họ Tập cho
rằng mình có một sứ mạng cao cả, dẫn dắt dân tộc Tàu thực hiện ước mơ
của mình, trẻ trung hóa chế độ, mang lại hạnh phúc cho mọi người dân và
sự kính nể đối với những nước trên thế giới.
Vẽ ra những ước mơ, cai trị dân qua cái loa, cái còng và cái súng, đây
không phải là riêng của Tập Cận Bình, mà là của tất cả giới lãnh đạo
cộng sản. Ngày hôm nay Tập Cận Bình đang trở về phương pháp này với dân
Tàu. Vì vậy thực chất đây là một cuộc cải cách giật lùi.
Chương trình cải cách của Tập Cận Bình sẽ thành công?
Một câu hỏi đến với chúng ta là liệu chính sách cải cách của Tập Cận Bình sẽ thành công hay không?
Có nhiều người cho rằng sẽ thành công, viện những lý do: Với sức mạnh
kinh tế hiện nay, theo như bản thống kê mới nhất của Quỹ Tiền tệ thế
giới, tổng sản lượng kinh tế tính theo khả năng mua sắm, thì Trung cộng
hiện nay là 17632 tỷ $, đã qua mặt Hoa Kỳ là 17416 tỷ, cũng như Ấn Độ,
với tổng sản lượng là 7 277 tỷ, đã qua mặt Nhật, với 4 788 tỷ. (Theo Bản
Tường trình của FMI - tháng 10/2014). Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhớ
là sản lượng tính theo đầu người hàng năm của Hoa Kỳ và của Nhật là gấp 4
hay 5 lần của Trung cộng. Ngoài ra hiện nay Trung cộng có một dự trữ
gần 4000 tỷ $, hiện là nước có nền thương mại lớn nhất thế giới, hàng
hóa Trung cộng có mặt trên khắp 5 châu.
Đây là một điều hay, nhưng cũng có mặt trái của nó, đó là đừng nghĩ với
kinh tế, tiền bạc là có thể giải quyết được tất, nhiều khi mang hại vào
thân, ngay ở cả mức độ quốc gia, vì mức độ giàu nghèo quá chênh lệch ở
Trung cộng, thêm vào đó giới giàu có, quyền lực thì càng ngày càng muốn
giàu có thêm, nhiều quyền lực thêm, trước sự đau khổ của dân.
Chúng ta có thể giản tiện hóa vấn đề, ví một quốc gia như một gia đình.
Một gia đình giàu có, có nhiều con cái với nhiều thân thuộc, bộ hạ, vấn
đề chia gia tài giữa các con, sau khi người cha chết, có thể đưa đến
việc các con cấu xé lẫn nhau. Trung cộng hiện nay đang bị “nạn” tương tự
qua việc chuyển quyền hành. Những đại gia, vừa giàu có, vừa có quyền,
đang tìm cách ti êu diệt lẫn nhau như việc Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh
Khang, Từ Tài Hậu, Bạc Hy Lai v.v... tìm cách đảo chính Tập Cận Bình,
cũng như sau đó tìm cách ám sát nhiều lần, nhưng không thành, theo như
nhiều nguồn tin đáng tin cậy.
Điều này chứng tỏ tình hình Trung cộng không ổn như người ta tưởng.
Thêm vào đó, họ Tập lại thâu tóm quyền hành một cách rất mau lẹ. Vừa mới
lên ngôi, họ Tập đã gặp Obama vào năm 2 013, chính một nhân viên của
Phủ Tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố: “Chúng tôi rất ngạc nhiên là ông Tập
Cận Bình đã thâu tóm quyền hành mau lẹ như vậy”.
Chương trình cải cách của họ Tập chỉ là một chương trình bế quan tỏa
cảng vào cuối thời nhà Minh, nhà Thanh, vì vậy nó sẽ không thành công,
mà còn có thể đi đến chỗ làm sụp đổ chế độ cộng sản?
Có người lại cho rằng sức mạnh của Trung cộng hiện nay chỉ là cái vỏ,
chỉ là “Một con hổ giấy”, nhãn hiệu mà Mao dùng để chỉ Hoa Kỳ trước đây.
Thật vậy, không nói đâu xa, ngay chính Chu Dung Cơ, cựu Thủ tướng của
Trung cộng cũng nói: “Trung cộng chỉ là anh khổng lồ chân bằng đất sét.”
Lý do đầu tiên và quan trọng trong sự thất bại của Tập Cận Bình là ông đã đi ngược lại đà tiến bộ của văn minh nhân loại.
Thật vậy, nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh: văn minh trẩy hái, văn
minh du mục, văn minh định cư nông nghiệp, và văn minh thương mại, rồi
tới văn minh trí thức điện toán ngày hôm nay.
Mỗi một thời văn minh tương xứng với một mô hình tổ chức nhân xã. Với
hai 2 nền văn minh đầu, đó là chế độ gia tộc và bộ lạc. Với văn minh
định cư nông nghiệp, đó là chế độ quân chủ phong kiến; và ngày hôm nay
là mô hình tổ chức dân chủ tự do và kinh tế thị trường.
Có người bảo rằng họ Tập muốn trở về thời kỳ cộng sản của Mao. Nhưng
chúng ta biết, mô hình tổ chức nhân xã của cộng sản chỉ là mặt trái của
mô hình quân chủ phong kiến, cũng là một chế độ cá nhân, độc đảng, độc
tài, nó đã dùng khoa học, kỹ thuật và thông tin tuyên truyền để củng cố
chế độ.
Lý do thứ nhì của sự thất bại, đó là như Khổng Tử đã nói: “Để cai trị dân tốt thì phải dựa trên công lý và lòng thành tâm.”
Đằng này họ Tập không dựa trên công lý để chống tham nhũng, nhưng chỉ
nhằm vào người nào tham nhũng không theo ông, còn những người theo ông
thì dung túng. Họ Tập thâu hồi tất cả những chiếu khán, hạn chế tối đa
sự xuất ngoại, nhưng chính gia đình ông xuất ngoại, con gái ông đang học
ở Hoa Kỳ.
Lý do thứ ba của sự thất bại đó là ông đã phá hủy tất cả những luật bất
thành văn, được để lại bởi Đặng Tiểu Bình, nhằm thực hiện những cuộc
trao quyền một cách êm thắm, tránh đổ máu. Những luật bất thành văn này
đã được thực hiện bởi 2 người trước ông là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm
Đào. Ngày 29/7/2014, họ Tập ra thông cáo điều tra Chu Vĩnh Khang, quản
thúc ông tại gia, tịch thu tài sản của những người họ hàng thân thích
với ông này, lên tới 300 người, với tài sản là 14,5 tỷ $.
Ngày xưa thì có việc chu di tam tộc, quả là ác ôn và đổ máu. Nhưng ngày
hôm nay, dù không đổ máu, nhưng tịch thu hết gia sản, rồi hôm nay bị
thẩm vấn, ngày mai bị tra hỏi bởi công an, mặc dầu sống nhưng nhiều khi
khổ hơn là chết. Chính vì vậy mà có người cho rằng lịch sử Tàu là một
chuỗi dài tranh quyền, cướp nước và trả thù.
Những gia đình, gia tộc bị họ Tập thanh trừng, bằng bất cứ giá nào cũng
tìm cách trả thù. Phim ảnh không nói lên tất cả, nhưng cũng nói lên một
phần nào lịch sử, văn hóa của một dân tộc. Phim chưởng Tàu là một chuỗi
dài những cuộc trả thù thiên thu bất tận.
Chương trình cải cách của Tập Cận Bình chỉ là trở về chính sách bế quan tỏa cảng
Trở về với ý kiến cho rằng chương trình cải cách của Tập Cận Bình chỉ là trở về chính sách bế quan tỏa cảng trước đậy.
Thật vậy, nước Tàu có một nền văn minh lớn và rất sớm, nhưng sau đó nước
Tàu bị tụt hậu, vì rất nhiều nguyên do, nhưng trong đó có một nguyên do
chính, đó là chính sách bế quan tỏa cảng vào cuối đời nhà Minh và cuối
đời nhà Thanh và chính sách mở cửa nhập cảng vội vã tư tưởng Marx Lénine
của đảng cộng sản, cặn bã của văn hóa, văn minh tây phương mà những
nước này đã chối bỏ.
Nước Tàu là một nước lớn, dân tộc Tàu có một nền văn minh rất sớm:
Năm 105, đời nhà Hán (206 trước Tây Lịch - 219 sau Tây Lịch), nước Tàu
đã phát minh ra giấy. Kỹ thuật ấn loát có nguồn gốc từ triều Tùy
(581-618) do Tất Thăng phát minh ra, sau đó được người Mông Cổ truyền
sang Châu Âu. Mãi sau này Johannes Gutenberg (1400-1468), người Đức dựa
vào những phát minh trên đã phát minh ra máy in và có thể nói đây là một
trong những nguyên do chính giúp Âu châu phát triển, vì nhờ máy in mà
sự hiểu biết, trí thức được lan rộng, lúc đầu là ở trong nhà thờ, in
kinh thánh, sau đó được quảng bá ra ngoài.
Năm 1000, đời Bắc Tống (916-1125), phát minh ra địa bàn và thuốc súng.
(Theo “La Formidable Histoire de l’Economie mondiale de l’Egypte antique
à la Chine de 2014 - báo Capital - hors série - Juin - Juillet 2014”)
Tuy nhiên văn minh Tàu bị khựng lại vì rất nhiều nguyên do, mà trong đó
là chế độ quân chủ, kéo dài quá lâu, từ chế độ quân chủ phong kiến tản
quyền sang chế độ quân chủ tập quyền, từ thời nhà Chu (1134-770 trước
Tây Lịch) cho tới ngày hôm nay với chế độ cộng sản (1949-?), chỉ là mặt
trái của chế độ này. Người ta nói Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và ngay
Tập Cận Bình là những ông hoàng đế đỏ, cũng không sai.
“Cải cách giật lùi, đi ngược lại đà tiến bộ của con người, của nhân loại
“của Tập Cận Bình có thể thành công ngắn hạn, nhờ kích thích tinh thần
quốc gia cực đoan, tôn quân, bản tính gió chiều nào theo chiều ấy của
người Tàu, như trường hợp điển hình, ông Chu Bân, con của Chu Vĩnh
Khang, đã đứng về phía họ Tập, tố cáo bố mình. Tuy nhiên nếu thành công
cũng chỉ là ngắn hạn; nhưng dài hạn, thật dài, thì có hại cho Tàu, gương
cuối đời của 2 triều đại nhà Minh và nhà Thanh còn ngay trước mắt.
Thực ra nói đến chính sách bế quan tỏa cảng của Tàu thì đã có từ lâu, có
thể từ thời lập quốc, qua quan niệm nước Tàu là trung tâm của vũ trụ
(Trung hoa), Hán là dân tộc văn minh nhất, còn những dân tộc chung quanh
chỉ là man di, mọi rợ. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài này, chúng tôi
không thể đi xa, đi sâu, chỉ xin nói sơ về sự thất bại của chính sách bế
quan tỏa cảng cuối đời nhà Minh và cuối đời nhà Thanh:
Nhà Minh (1368-1643), do Chu Nguyên Chương lập ra, sau khi đánh đuổi nhà
Nguyên (1278-1368), một chế độ của người Mông cổ mà sử còn gọi là chế
độ Nguyên Mông, chế độ ngoại tộc, không phải là Hán tộc. Chính vì vậy mà
Chu Nguyên Chương và tất cả vua quan sau này của nhà Minh có một chính
sách bế quan tỏa cảng, bài ngoại rất cao, rất tàn ác với những dân tộc
không phải là Hán. Đây là kinh nghiệm máu xương của dân tộc Việt nam
trong vòng 20 năm bị lệ thuộc nhà Minh từ năm 1407 tới 1427. Quân đội
của Trương Phụ nhà Minh không những tàn ác với dân Việt, mà còn tìm cách
tiêu hủy tất cả những gì có tính chất đặc thù dân tộc Việt, qua việc
đốt sách vở, bắt tất cả những người có đầu óc mang về Tàu. Việc 2 người
Việt nam, ông Nguyễn An, một trong những kiến trúc sư chính, xây lên Tử
cấm Thành (thành Bắc Kinh), một người khác, ông Hồ Nguyên Trừng, con của
Hồ quí Ly, bị bắt qua Tàu, làm đến chức Bộ Công, xây dựng quân cụ thời
vua Minh Anh Tông, đã làm ra súng đại bác (thần công), cũng là từ đó.
Theo sử sách thì “Quân Minh khi làm lễ tế súng, đều phải tế Trừng”.
Có người nói thời Minh không có chuyện bế quan tỏa cảng, dẫn sự việc
Trịnh Hòa, một hoạn quan thời Minh với lệnh của triều đình, đóng 62
chiếc thuyền, chiều dài cả 100m, chiều ngang 40m, chở 37000 hải quân,
đem nhiều vàng, đồ gốm, lụa, đi từ cửa biển Lưu gia cảng, tây bắc Thượng
Hải, vào năm 1405, qua Phúc Kiến, có thể nói là một cuộc hành trình
vòng quanh thế giới vào lúc bấy giờ, vì đã qua cả chục nước, có nhiệm vụ
quảng bá sức mạnh của nhà Minh và đồng thời buôn bán, trao đổi hàng
hóa. Đấy là bề ngoài của sự việc, bên trong có người cho là Trịnh Hòa
còn có nhiệm vụ tìm vua Huệ Đế, mà vua Minh Thành Tổ nghi là đã trốn ra
nước ngoài, ở những nước chung quanh hoặc các đảo ngoài biển.
Sự việc là vua Minh Thái Tổ, Chu Nguyên Chương, lập người con trưởng tên
là Tiêu làm thái tử, không dè Tiêu chết sớm, vua bèn lập con của Tiêu,
tên là Kiến Văn, lên làm thế tôn. Khi Chu Nguyên Chương chết, Kế Văn lên
làm vua, tức Huệ Đế, được 4 năm. Không dè người chú, lúc đó đang trấn
thủ ở đất Yên xưa kia, mang quân về đảo chánh, thành công, lên ngôi vua
tức Minh Thành Tổ. Minh Thành Tổ nghi Huệ đế trốn ra nước ngoài nên làm
ra đoàn tầu Trịnh Hòa, để đi kiếm. Điều này nói lên sự tranh quyền, giữ
quyền ở Tàu rất là khủng khiếp, cũng chẳng khác nào như thời Tập Cận
Bình hiện nay. Vì nhiều lý do, trong đó có lý do là sau khi Minh thành
Tổ chết, việc tìm kiếm Huệ đế không được đặt ra, nên ngân sách cho đoàn
tàu Trịnh Hòa dần dần bị cắt giảm.
Ngày hôm nay, giới lãnh đạo cộng sản Tàu, nhắc nhiều đến Trịnh Hòa và
đoàn tàu, nhất là trong khuôn khổ tranh chấp biển Đông, muốn nói lên sức
mạnh hải quân của Tàu từ xưa, nhưng họ cố ý hay vô tình quên đi sự
tranh quyền nội bộ nằm ngay sau lưng.
Triều đại nhà Minh chỉ thịnh lúc ban đầu, nhưng sau đó đi vào suy thoái (1436-1623), rồi bước sang chỗ diệt vong (1623-1660).
Trong thời gian suy thoái và diệt vong này, nhà Minh đã chủ trương chính
sách bế quan tỏa cảng cao độ: Hạm đội của Trịnh Hòa không còn nữa, đó
là về mặt biển, về mặt đất liền thì tăng cường tu bổ Vạn lý trường
thành. Bên ngoài thì bế quan tỏa cảng, bên trong thì bài xích những
chủng tộc khác qua văn hóa, giáo dục, bắt đầu bằng chủng tộc Mông, triều
đại đã cai trị nước Tàu trước đó. Sau này từ thời Mao thì kỳ thị, coi
thường dân tộc Mãn, dân tộc đã đánh bại chính sách bế quan tỏa cảng của
nhà Minh, hay nói đúng hơn là đánh bại nhà Minh, cai trị xứ Tàu sau đó,
cũng như tất cả các dân tộc khác như Hồi, Mông, Tạng.
Dân tộc Mãn Thanh là một dân tộc sống ở phía đông bắc nước Tàu.
Hai người được coi là sáng lập nền tảng cho nhà Thanh chính là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực.
Nỗ nhĩ cáp xích (1559 -1626), ông sinh ra trong một gia đình quí tộc Mãn châu ở vùng đông bắc nước Tàu. Theo chính sách phên dậu của nhà Minh dùng những bộ tộc làm hàng rào, phên chắn cho triều đình trung ương, gia đình ông được nhà Minh phong cho chức Đô đốc vùng Kiến Châu, cha truyền con nối. Ông là người dũng cảm, được viên Tổng trấn vùng đông bắc, nhà Minh, tuyển ông vào đội cận vệ. Từ đó, nhờ can đảm, nhờ những liên hệ gia đình trước đó, cùng những liên hệ mới, ông đã qui tụ những chân tay bộ hạ của bộ tộc mình trước kia, nay bị những bộ tộc khác tiêu diệt, rồi thống nhất 8 bộ lạc Mãn, để lên làm khả hãn, như Thành Cát Tư Hãn của bộ tộc Mông Cổ trước đó. Ông đã lập ra thể chế “Bát Kỳ”, tiêu biểu bằng 8 lá cờ, từ màu vàng, sang màu trắng, màu lam, mà người ta có thể hiểu là 8 bộ tộc, 8 vùng chiến thuật, từ Hoàng Kỳ, Bạch Kỳ, Lam Kỳ v.v... Tám Kỳ này lấy những quyết định quan trọng theo cách bỏ phiếu đa số, nhất là việc kế vị ngôi vua.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích lên ngôi Hoàng đế năm 1616, dần dần trở nên lớn mạnh,
thống lãnh cả một vùng đông bắc, có lúc lên đến cả sáu bảy vạn quân. Năm
1619, vua Minh sai Binh bộ thị lang Dương Cảo, lãnh 16 vạn quân, thẳng
tiến phía đông bắc nhằm tiêu diệt ông, gồm 4 cánh quân: tây lộ, bắc lộ,
đông lộ và nam lộ. Bình tĩnh nhận định tình hình, phân tích sự việc,
phân tích từng cánh quân của địch, ông đã cho quân Bát Kỳ, chỉ có 6 vạn,
nhanh chóng chiếm bờ sông Tát Nhĩ Hử, chờ cánh quân chủ lực Tây lộ của
quân Minh tới. Quả như điều ông tiên đoán, trong trận này ông đã phá tan
quân chủ lực của nhà Minh. Những cánh quân tiếp đến, ông tiêu diệt từng
cánh một.
Ông chết vào năm 1626, nhưng người ta có thể nói là ông đã gây dựng tất
cả những nền móng, để nhà Thanh đánh vào trung nguyên, lập nên nghiệp
lớn cho con cháu ông sau này.
Người kế thừa ông là Hoàng Thái Cực (1592-1643), người con thứ 8 của
ông. Ông kế thừa sự nghiệp và chí lớn của cha, chủ trương học hỏi tinh
thần dũng mãnh, chiến lược hành quân thần tốc của người Mông Cổ, sự uyên
bác của người Tàu, nên các vị vua kế nghiệp ông về sau rất thông hiểu
văn hóa Tàu. Ông cũng nhất quyết đánh xuống trung nguyên, kết thúc chế
độ nhà Minh.
Một sự kiện lịch sử nhỏ chứng tỏ sự thất bại của chính sách xây Vạn lý
trường thành, bế quan tỏa cảng của triều Minh: Ngày 27/10/1629, Hoàng
Thái Cực xuất binh, vòng qua thành tuyến Liêu Đông, đốt phá Vạn lý
trường thành, ở phía tây bắc, vòng đến Hà Bắc, tiến vào đốt phá thành
Bắc Kinh.
Nước Tàu ngày hôm nay, Tập Cận Bình có xây bao nhiêu bức tường lửa
(Firewall) đi chăng nữa, cũng không thể nào cấm được những nguồn thông
tin trung thực, những luồng tư tưởng Tự Do, Nhân Bản từ bên ngoài. Sẽ có
ngày không xa người dân Tàu sẽ nổi dậy giành lại quyền sống, lật đổ chế
độ cộng sản, như ngày xưa người Mãn đã phá Vạn lý trường thành và lật
đổ nhà Minh.
Khang Hy là ông vua thứ nhì đời nhà Thanh, sau khi nhà Thanh chiếm được
toàn cõi nước Tàu, được coi là một trong 10 vị Đại Hoàng đế của Tàu. Ông
không những tỏ ra thao lược về chính trị và quân sự, mà ông còn giỏi cả
về văn hóa, nghệ thuật. Chỉ cần người ta nói đến Tự điển Khang Hy, được
làm ra thời ông, bằng Hán văn, gồm 47035 chữ, hay người ta nói đến đồ
gốm Khang Hy, vừa đẹp về sắc gốm, vừa đẹp về hình tượng vẽ ở trên, cũng
đủ chứng minh ông là một vị hoàng đế lớn.
Tuy nhiên cũng như nhà Minh, chỉ có ba bốn vị vua đầu thì khá, nhưng sau đó thì đi vào thoái trào.
Người ta có thể nói giống như nhà Minh, nhà Thanh đi từ chỗ suy thế (1795-1850), rồi tới thế diệt vong (1850-1911).
Thời nhà Minh, khi quân Minh bị Lê Lợi đánh đuổi về Tàu năm 1427, thì liền sau đó là tới thời suy thoái, bắt đầu vào năm 1436.
Với nhà Thanh, sau khi quân nhà Thanh bị Nguyễn Huệ đánh bại ở Việt Nam,
năm 1789, thì nhà Thanh cũng bước vào thời kỳ suy thoái.
Thời kỳ suy thoái của nhà Thanh có thể nói là bắt đầu vào cuối đời vua Càn Long, cầm quyền 60 năm từ năm 1735 đến 1795.
Càn Long vào cuối đời, có thể vì một phần già yếu, không lo triều chính
như lúc còn trẻ, thêm vào đó, lại tiêu xài hoang phí, qua những cuộc du
ngoạn phương nam, rất tốn kém. Bên cạnh là Tể tướng Hòa Thân, một con
người tham nhũng khét tiếng; có người nói, tài sản của họ Hòa hơn cả
ngân khố quốc gia.
Điều này làm chúng ta liên tưởng đến chế độ cộng sản hiện nay của Tập
Cận Bình: tham nhũng từ trên xuống dưới, không chỉ thủ tướng mà cả cựu
và đương kim tổng bí thư, xuống đến tận hang cùng ngõ hẻm, đến một anh
cán bộ đảng tầm thường cấp xã. Vào thời Càn Long, còn có những ông quan
liêm khiết, chính trực, vì còn trọng Nho giáo, Khổng giáo, lấy nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu.
Ngày hôm nay tại Tàu, sau khi chạy theo lý thuyết Mác-Lê, theo duy vật
chủ nghĩa, vứt bỏ mọi giá trị tốt đẹp cổ truyền, lại thực hiện lời dạy
của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng, mèo đen không cần biết. Chỉ cần là mèo
biết bắt chuột.”, từ dân cho chí quan, chạy theo vật chất, không còn
chút liêm sỉ, làm giàu, bằng bất cứ thủ đoạn, phương tiện gì, ngay cả
giết người, lừa đảo, dối trá.
Thời kỳ diệt vong của chế độ nhà Thanh bắt đầu từ 1850, khi ông vua Hàm
Phong, chồng bà Từ Hy, lên ngôi năm 1850 cho tới cuộc Cách mạng Tân Hợi
1911.
Nguyên sự kiện ông vua này chán nản trước tình hình, vận nước, bị liệt
cường xâu xé, như chúng ta lấy sự kiện Hồng Kông đang nổi tiếng qua
những cuộc biểu tinh của sinh viên học sinh hiện này. Vùng đất này bị
nhượng cho nước Anh trước đó 8 năm, 1842, rồi tới chiến tranh Nha Phiến,
Liệt cường xâu xé. Ông đã cùng một thái giám, ban đêm thường lẻn ra
khỏi thành, chơi bời nơi tửu điếm, lầu xanh đến nỗi bị mắc bệnh giang
mai, rồi chết sớm.
Con của ông với bà Từ Hy, lên ngôi tức vua Đồng Trị, do 2 người Thái hậu
nhiếp chính, Đông cung tức bà Từ An, Tây cung tức bà Từ Hy. Sau đó Từ
Hy tìm cách vu khống Từ An, loại bà này, nắm toàn quyền nhiếp chính. Từ
đây, nước Tàu đời nhà Thanh đi vào thời kỳ diệt vong: không những ngoại
loạn, mà còn nội ưu. Sau vua Đồng Trị là vua Quang Tự, người cháu, con
người em gái của bà, nhưng bà Từ Hy vẫn toàn quyền nhiếp chính. Ông vua
này đã chống đối bà, chủ trương cải cách mạnh cùng với một số trí thức
cải cách lúc bấy giờ, như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng một người
thầy của vua Quang Tự, ông Đồng Hòa, quyết định biến pháp, năm 1898: ban
hành hiến pháp và nhiều luật lệ mới, để canh tân nước Tàu theo gương
nước Nhật và nước Nga. Tuy nhiên cuộc biến pháp này chỉ kéo dài 100 ngày
rồi bà Từ Hy trở lại dẹp tan, mặc dầu vậy vua Quang Tự vẫn ngồi vì cho
tới khi chết năm 1908, rồi bà chết theo. Vua Phổ Nghi lên, ba năm sau,
thì có cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911, chấm dứt triều đại nhà Thành.
Cuối đời nhà Thanh, với bà Từ Hy và phe triều đình bảo thủ, củng cố dựng
lên những bức tường để ngăn chặn tư tưởng tự do từ bên ngoài, nhưng
phòng tuyến đã bị chọc thủng qua nhân vật vua Quang Tự, ngay trong
triều, để đi đến chỗ sụp đổ.
Chúng ta thấy 2 chính sách bế quan tỏa cảng của 2 triều đại cuối, nhà
Minh, nhà Thanh đều thất bại, hoặc vì nội loạn ngoại ưu, hay ngoại loạn
nội ưu.
Thời suy thoái và thời kỳ diệt vong của chế độ cộng sản Tàu
Trở về với nước Tàu hiện nay có người hỏi đâu là thời suy thoái và đâu là thời kỳ diệt vong của chế độ cộng sản?
Đây là câu hỏi khó trả lời vì chế độ cộng sản chưa chấm dứt. Tuy nhiên một cách ước đoán, chúng ta có thể nói:
Thời kỳ suy thoái của chế độ cộng sản bắt đầu từ năm 1989 tới 2014, với
sự đàn áp dân, sinh viên và học sinh bằng xe tăng và súng. Chắc chắn có
nhiều người khó chấp nhận với nhận định này vì nhìn vào bề ngoài và thực
tế thì nền kinh tế Tàu trong giai đoạn này đã tăng trưởng một cách dài
hạn và vượt bực, đã đưa tổng sản lượng quốc gia của nước Tầu lên hàng
nhất nhì thế giới. Nhưng theo như câu nói của Chu Dung Cơ, cựu thủ tướng
dưới thời Giang Trạch Dân, thì nước Tàu chỉ là anh khổng lồ có đôi chân
bằng đất sét. Sau biến cố Thiên An Môn, những thành tựu ban đầu do
chính sách tương đối cởi mở về tư tưởng và chính trị dưới thời Hồ Diệu
Bang và Triệu Tử Dương, nhằm đưa nước Tàu trên con đường phát triển ổn
định và quân bình đã bị hủy bỏ và hoàn toàn đi ngược lại. Vì vậy, mặc dù
nước Tàu đạt được một số thành quả ngoạn mục về kinh tế qua chính sách
“Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nói nôm na dễ
hiểu là chính sách kinh tế tư bản rừng rú kiểu mèo trắng mèo đen của
Đặng Tiểu Bình, kiếm tiền, làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn và
hậu quả. Đằng sau những cao ốc chọc trời, xa lộ thênh thang, xe lửa cao
tốc là những bất công chồng chất trong một xã hội bất ổn, vô đạo đức, vô
nhân tâm, người người giết nhau như bầy thú chỉ vì chút ít tiền hay
tranh giành địa vị. Ngoài ra những vấn nạn: mâu thuẫn chủng tộc, Tạng,
Hồi, Mông, Mãn, Hán, ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, thực phẩm độc
hại đang giết hại lần mòn hàng tỷ dân Tàu. Đúng như lời ông François
Mittérand, Tổng thống Pháp lúc bấy giờ, đã bình luận về vụ đàn áp Thiên
An Môn 1989: “Một chính quyền dùng súng bắn vào dân, học sinh, sinh viên
là một chính quyền dùng súng bắn vào tương lai của mình.” Ngọn lửa
Thiên An Môn vẫn âm ỉ cháy trong lòng người dân, trong tâm khảm của hàng
triệu thanh thiếu niên, trong lòng của những người mẹ, người cha, chỉ
chờ một biến cố nhỏ là có thể bùng cháy kết thúc một chế độ gian xảo,
cực ác trong lịch sử nhân loại.
Thời kỳ diệt vong của chế độ cộng sản bắt đầu từ năm 2014, khi xảy ra vụ
Bạc Hy Lai, bị bắt và bị đưa ra tòa, bề ngoài là vì tham nhũng, nhưng
theo tin tức đáng tin cậy, thì là âm mưu đảo chính Tập Cận Bình, rồi
liền sau đó có những vụ ám sát nhưng không thành, khiến cho Từ Tài Hậu,
nhân vật thứ nhì trong Quân Ủy hội, cùng một số tướng lãnh bị khai trừ
khỏi Đảng. Rồi Chu Vĩnh Khang, nhân vật thứ ba trong Đảng, bị tuyên bố
điều tra.
Nhưng thời kỳ diệt vong này kéo dài bao lâu, người ta chưa thể biết.
Cần lưu ý một điều là chế độ cộng sản, khác với 2 chế độ vừa kể, không
chủ trương chính sách bế quan tỏa cảng lúc ban đầu từ năm 1949, khi họ
cướp được chính quyền, mà phải nói là từ ngày thành lập năm 1921, đảng
cộng sản Tàu đã chủ trương mở cửa, đón nhận những tư tưởng nước ngoài.
Nhưng có một điều không may mắn, đáng buồn cho dân tộc và nước Tàu, đó
là giới lãnh đạo này chưa đủ trình độ trí thức để biết rõ đâu là cái hay
cái dỡ của văn hóa, văn minh đông phương, đâu là cái hay cái dở của văn
hóa, văn minh tây phương, vội vứt bỏ toàn bộ văn hóa đông phương, kiểu
như Mao Trạch Đông tuyên bố: “Khổng tử là con chó giữ nhà cho bọn phong
kiến”, vội nhập cảng lý thuyết Marx, Lenin, cặn bã của văn hóa tây
phương.
Giới sĩ phu, trí thức cộng sản Tàu và Việt Nam nên suy ngẫm điều này! (1)
Trở về chính sách cải cách của Tập Cận Bình, được che giấu dưới những mỹ
từ, nào là chống tham nhũng, lấy lại niềm tin của dân, thực hiện giấc
mơ Trung cộng; nhưng bản chất thực là sự đấm đá nội bộ, tranh quyền, trở
về chính sách bế quan tỏa cảng, kiểm soát những nhà đối lập mạnh mẽ
hơn, cấm dân phát biểu tự do, kiểm soát dân truy cập Internet v.v...,
đây cũng là bắt đầu thời kỳ diệt vong của chế độ cộng sản, như một số
người đưa ra giả thuyết này.
Nhưng đâu là chỉ dấu của sự diệt vong?
Chỉ dấu đầu là sự thanh trừng nội bộ một sống một còn, khi Tập Cận Bình
tuyên bố: “Tôi không màng đến sự sống chết, tôi không lưu tâm đến việc
tiếng tăm của tôi còn hay mất, tôi quyết tâm chống tham nhũng.”
Chỉ dấu thứ nhì là sự nổi dậy của dân Hồng Kông. Tất nhiên Hồng Kông
không đòi độc lập, nhưng sớm muộn, dân Hồng Kông sẽ đòi tự do, dân chủ,
dân cử và dân bầu, chứ không phải là đảng cử dân bầu. Một khi ước vọng
này được thực hiện, thì nó sẽ là một vết dầu loang, loang ra những vùng
lân cận, như Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Đông, Quảng Tây và tới ngay cả
Bắc Kinh.
Đến lúc đó, chế độ cộng sản còn đứng vững không? Đảng cộng sản Tàu còn tồn tại không?
Câu trả lời là chế độ cộng sản rất khó tồn tại và đứng vững. Nhưng đó
cũng chỉ là dự đoán tương lai. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi.
Paris ngày 14/11/2 014
danlambaovn.blogspot.com
(1) Xin xem thêm những bài về Tàu và Tập Cận Bình, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
(1) Xin xem thêm những bài về Tàu và Tập Cận Bình, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/