Nền học thuật sử học Việt Nam đã lụi tắt vào cuối những
năm sáu mươi, đầu những năm bảy mươi của thế kỉ XX. Chính là các học giả
và những người trong tầng lớp trí thức cầm quyền của DRV (Democracti
Republic of Vietnam/ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đã hủy diệt nền học
thuật ấy. Những người này đã buộc các nhà sử học phải viết lịch sử theo
một khung giá dân tộc chủ nghĩa hạn hẹp, một khung giá phải dựa trên
những chủ đề (themes) về chủ nghĩa anh hùng, tình yêu tổ quốc
(nation), và [tinh thần] chống ngoại xâm.
Các nhà sử học người Việt đã triển khai cách tiếp cận này cho quá
khứ ngay khi mà ở những nơi khác trên thế giới người ta đã không còn
tiếp tục ưa chuộng cách viết lịch sử dân tộc chủ nghĩa nữa. Bởi vì thực
tế là từ thời điểm ấy, người ta đã coi “dân tộc/quốc gia” (the nation)
như một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc hiểu quá khứ. Nhiều
năm sau đó đến nay, ở phương Tây, người ta có một nỗ lực to lớn để vượt
lên trên “dân tộc/quốc gia” (the nation), và để kiểm xét mọi khía cạnh
của quá khứ (và có rất nhiều là) những khía cạnh bị cản trở bởi lăng
kính chủ nghĩa dân tộc.
Ở Việt Nam, tuy nhiên, dân tộc (the nation) vẫn chiếm ngự trị, và
[kiểu] lịch sử dân tộc chủ nghĩa là dạng (form) lịch sử duy nhất được
những người nắm quyền lực [the powers] chấp nhận là lịch sử. Đó là bởi
vì cách tiếp cận với quá khứ được áp dụng từ cuối những năm sáu mươi,
đầu những năm bảy mươi của thế kỉ XX ở miền Bắc Việt Nam (như vừa đề
cập) đã tiếp tục ở những khu vực khác trên toàn đất nước này từ sau năm
1975, và vẫn như vậy đến tận hôm nay.
Vì thế những ý tưởng và việc làm của những người đã hủy diệt tri
thức lịch sử ở cuối những năm 60, đầu những năm 70 của thế kỉ XX đã trở
nên rất quan trọng, vì chúng có ảnh hưởng đối với toàn bộ nền học thuật
Việt Nam trong suốt vài thập kỉ qua đến nay. Thời kì lịch sử những năm
60, 70 đó vì vậy cũng rất đáng khảo sát lại, để chúng ta nhìn thấy những
gì đã thật sự được viết ra. Tôi dự định sẽ viết lên về vài nghiên cứu
tiêu biểu ở giai đoạn này khi tôi nhận ra chúng sẽ gộp chung vào một
nhóm mới cho blog này, nhóm mà tôi đang gọi là “the death of historical
inquiry in Vietnam” (Cái chết của Tri thức Lịch sử ở Việt Nam) Chúng ta
bắt đầu ở đây bằng việc nhìn vào một bài viết (an article) được viết ra
bởi một người có lẽ chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc hủy diệt tri
thức lịch sử ở Việt Nam: Trần Huy Liệu
Tháng 7 năm 1967, nhà sử học Trần Huy Liệu đã viết một bài viết ngắn
trên Nghiên cứu lịch sử với nhan đề “Nâng cao nhiệt tình yêu nước trong
khi nghiên cứu lịch sử dân tộc” [“Increase Patriotic Ardor While
Researching the History of the Nation(ality).”] Trong bài viết này, Trần
Huy Liệu viết rằng các nhà sử học dưới chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hòa
đang viết ra một [phiên bản] lịch sử mới, một phiên bản có thể truy
nguyên sự phát triển của Việt Nam từ thời kì công xã nguyên thủy đến
hiện tại. Đó là một kiểu lịch sử [mang tính] khoa học, một kiểu lịch sử
được trang bị bằng chủ nghĩa Mác Lê-nin, và dưới sự dẫn dắt của Đảng. Và
trong khi Trần Huy Liệu phấn khởi khẳng định những tiến triển các nhà
sử học đã làm được, có một điều mà [ông cho rằng] họ vẫn còn thiếu sót –
tức là “nhiệt tình yêu nước.”
Trần Huy Liệu nói rằng “nghiên cứu hay biên soạn lịch sử dân tộc,
nhất là một dân tộc anh hùng như dân tộc ta, chúng ta chẳng phải chỉ cần
có thái độ khách quan để trình bày sự thật lịch sử, mà còn phải gửi gắm
ở đó một tình cảm nồng nàn đối với dân tộc, với đất nước, với lịch sử
dân tộc và đất nước mình.” [“in writing or compiling a history of the
nation(ality), especially that of a heroic nation(ality) like ours, we
cannot just relate the historical facts with an objective attitude, but
must also pass on ardent sentiments toward the nation(ality), the
country, and the history of our nation(ality) and country.”]
Trần Huy Liệu sau đó đã đặt một câu hỏi tu từ rằng liệu có mâu thuẫn
giữa có khoa học và yêu nước hay không. Ông tự trả lời rằng “quan điểm
khoa học và tinh thần yêu nước không những không mâu thuẫn nhau, mà còn
rất cần cho một cán bộ sử học. Nếu không có quan điểm khoa học thì không
thể nắm được qui luật tiến hóa của lịch sử, giải thích được những sự
kiện tất yếu của lịch sử, cũng như không có tinh thần yêu nước, thì lịch
sử dân tộc đối với người nghiên cứu chỉ là một đối tượng rất vô tình.”
[“science and the spirit of patriotism are not only not contradictory,
but are essential for a history cadre. If one is not scientific, then
one cannot grasp the laws of historical evolution and explain the
essential events in history, and if one is not patriotic, then the
history of the nation(ality) will just be an indifferent (vô tình) topic
of study for the researcher.”]
Ông tiếp tục bằng việc nói đến vấn đề “Có người lầm tưởng rằng: theo
duy vật sử quan, người nghiên cứu hay biên soạn lịch sử nước ta chỉ cần
có một thái độ khoa học để phân tích người và việc một cách khách quan
là đủ. Tôi thấy chưa đủ.” [“Some people erroneously think that in
following the perspective of historical materialism, it is sufficient
for the person who writes or compiles a history of our country to only
need to have a scientific attitude to analyze people and events in an
objective manner. I feel that this is not sufficient.”]
Trần Huy Liệu giải thích rằng một [quyển] lịch sử một dân tộc [Việt
Nam] khác với một [quyển] lịch sử dân tộc tiến hóa của nhân loại hoặc
một [quyển] lịch sử phát triển của xã hội bởi vì nó phải [khiến] người
đọc “thấm nhuần” [“imbue”] “lòng yêu quý đất nước, tinh thần tự tôn dân
tộc” [“feeling of love and respect for the land and a spirit of pride in
one’s nation(ality)”].
Ông kết luận bằng việc nói rằng “Hiện nay, lịch sử dân tộc ta đương
dở ra những trang mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân,
thừa kế truyền thống anh hùng của dân tộc, chúng ta đã kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phấn đấu cho tổ
quốc được độc lập hoàn toàn và xây dựng chủ nghĩa xã hội.” [“At present
the history of our nation(ality) is opening a new page. Under the
leadership of the Party of the working class, and continuing the
tradition of heroism of the nation(ality), we are uniting true
patriotism with international communism, and struggling for our
fatherland to obtain complete independence and to build socialism.”]
“… nhưng một điều không được quên là những người viết sử dân tộc
phải làm cho người đọc nó được hun đúc thêm lòng yêu nước, tinh thần tự
hào dân tộc, yêu tổ quốc cũng như yêu lịch sử của tổ quốc mình. Đã vậy,
những cán bộ công tác sử học phải tự mình nâng cao nhiệt tình yêu nước;
nói cách khác, nếu không có lòng yêu nước nồng nàn thì làm sao góp phần
được vào việc xây dựng lịch sử dân tộc, nhất là một dân tộc anh hùng.”
[“... on point which cannot be forgotten is that the people who are
writing the history of the nation(ality) must forge in the readers a
feeling of love of country, a spirit of pride in the nation(ality), and
to love the fatherland as well as the history of their fatherland. As
such, those cadres working on historical scholarship must elevate their
patriotic ardor. To put it differently, if they do not love the country
passionately, then how can they contribute to building the history of a
nation(ality), particularly a heroic nation(ality)?”]
“Cố nhiên là nói đến yêu nước trong lúc này, chúng ta phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, với sự lãnh đạo của Đảng tiền phong. Đó cũng là
qui luật tất yếu của lịch sử dân tộc ta đương bước sang một giai đoạn
mới.” [“Of course in speaking of love of country at this point, we have
to combine this with socialism, with the leadership of the Party
vanguard. That is also an essential law of the history of our
nation(ality) as we enter a new phase.”]
——-
Tôi cho rằng bất kì ai ở phương Tây ngày nay đọc những nhận xét trên
sẽ lập tức quan sát tính chất chính trị rõ rang như thế nào trong những
nhận xét của Trần Huy Liệu. Những nhà sử học đích thực thì không cố
gắng truyền tới người đọc một ý nghĩa nào của chủ nghĩa yêu nước. Đó có
thể là điều mà một số giáo viên dạy lịch sử ở phổ thông có thể làm,
nhưng điều đó không [bao giờ] có chỗ trong một nền học thuật đích thực.
Mặc dù vậy, hoàn toàn có thể hiểu tại sao một người như Trần Huy
Liệu đã cảm thấy cần đưa ra luận điểm như thế ở năm 1967. Và chúng ta có
thể thông cảm, tôn trọng những học giả đã đáp lại lời kêu gọi ấy [của
Trần Huy Liệu] để xây dựng ra một nền học thuật mang tính chất “yêu
nước” tại thời điểm đó.
Tuy nhiên, điều mà không tài nào hiểu được là, 43 năm sau kể từ khi
Trần Huy Liệu viết bài viết ngắn này, và 35 năm sau kể từ khi chiến
tranh kết thúc, cách tiếp cận này đối với quá khứ vẫn ngự trị trong thế
giới học thuật ở Việt Nam. Nó có thể không rõ ràng rành rành như được
thấy ở đây, trong bài viết của Trần Huy Liệu, nhưng vẫn đúng cái mệnh
lệnh thức đó (tức cái yêu cầu khiến người ta phải làm theo- NS) vẫn làm
động lực cho học thuật ở Việt Nam. Đã đi qua 43 năm. 43 năm là một
khoảng thời gian rất dài, và thật khó khăn để cảm thông hay tôn trọng
nhưng học giả tiếp tục chỉ một kiểu học thuật sử học như thế trong 43
năm.
Cuối cùng, thứ lịch sử “khoa học” mà các học giả dưới thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã gây dựng thời điểm đó cuối cùng trở nên ít khoa học
hơn rất nhiều với những gì họ dự định. Không thể “nắm được qui luật tiến
hóa của lịch sử” và truy nguyên sự phát triển của xã hội ở Việt Nam từ
thời công xã nguyên thủy đến hiện tại, thay vào đó, họ cuối cùng đã viết
ra một lịch sử dựa trên nền tảng của một thứ thiếu tính khoa học rất
nhiều nhưng lại cực kì có uy quyền – thứ ấy là “chủ nghĩa dân tộc”
(nationalism).