Diên Vỹ chuyển ngữ
Vào ngày 21 tháng Mười một 2004, Viện Khổng học đầu tiên đã mở cửa
tại Seoul, Hàn Quốc. Sự thành lập này đã được sắp xếp, cũng như mọi khía
cạnh của quá trình ngoại giao công chúng của một chính phủ Trung Quốc
ngày càng tự tin. Ví dụ như vùng bán đảo Triều Tiên, từng có một lịch sử
lâu dài gắn bó vớ hệ tư tưởng, xã hội và quan lại của Khổng giáo. Ý
nghĩa hơn nữa là trước cuộc chiến tranh Trung - Nhật 1894-5, Triều Tiên
là một phần của đế chế phong tục văn hoá Trung Hoa. Trên thực tế, nó là
bộ phận cuối cùng bị tan rã. Như thường vẫn làm, chính quyền Trung Quốc
nhìn lại đấy như là một cách thức để thể hiện đà đi lên mới có của mình.
Họ xem Viện Khổng học Seoul như là một bước quay lại, như Don Starr
(Học giả nghiên cứu về Trung Quốc thuộc Đại học Durham - ND) “câu lạc bộ
các nước thuộc thế giới thứ nhất sau một thế kỷ nằm ở vị thế bán thuộc
địa và 50 năm thành viên của khối thế giới thứ ba.” Trung Quốc đang gửi
một thông điệp đến thế giới rằng nó đã quay lại trong tư thế một cường
quốc quan trọng.
Từ những năm sau đấy, kinh tế Trung Quốc đã tăng từ vị trí thứ năm
trên thế giới đến hiện tại chỉ đứng sau Hoa Kỳ, một vị trí tạm thời nếu
ta tin vào dự đoán. Sự tăng trưởng mau chóng này đã được xem như là một
đe doạ đối với thế giới mặc dù giới lãnh đạo Trung Quốc, trong đó có Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào, vẫn thường kêu gọi “hoà bình và phát triển” và “một
thế giới hài hoà”. Trong việc theo đuổi những vai trò đầy tham vọng
trong vị thế lãnh đạo khu vực và xây dựng cơ chế quốc tế cũng như tăng
cường quá trình hiện đại hoá và hoà nhập vào cộng đồng toàn cầu, chính
quyền Trung Quốc đã xoay sang việc khai thác văn hoá chiến lược truyền thống như là biện pháp để đạt được quyền lực mềm. Viện Khổng học, được thiết kế theo khuôn mẫu của những học viện tương tự như Alliance Française của Pháp hoặc Viện Goethe của Đức, là phương tiện để truyền tải thông điệp này.
Theo trang mạng chính thức của nó,
khuôn mẫu Viện Khổng học - khởi đầu được thiết kế, quản lý và tài trợ
bởi chính quyền Trung Quốc - được thành lập để phục vụ một số mục tiêu:
để phát triển các lớp dạy ngôn ngữ Trung Quốc cho những thành phần khác
nhau trong xã hội; để đào tạo các giáo viên dạy tiếng Trung cho các học
viện địa phương và cung cấp cho họ những nguồn tham khảo về tiếng Trung;
để thiết lập các cơ sở nhằm phục vụ việc tổ chức các kỳ thi HSK (khảo
thí trình độ tiếng Trung ) và để quản lý những thủ tục cấp chứng chỉ
giáo viên tiếng Trung; để cung cấp các dịch vụ thông tin và tham vấn
liên quan đến các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, kinh tế và xã hội Trung
Quốc; và để quảng bá những nghiên cứu về Trung Quốc hiện đại.
Việc mở rộng các Viện Khổng học đi song song với sự tăng trưởng kinh
tế và vị thế toàn cầu của Trung Quốc. Cho đến tháng Bảy 2013, đã có 327
Viện Khổng học ở hơn 90 quốc gia và khu vực. Quản lý các Viện Khổng học
là Văn phòng Uỷ ban Quốc tế về Tiếng Trung Quốc, gọi tắt là Hán Ban. Đây
là một tổ chức quần chúng phi lợi nhuận được quản lý bởi một nhóm người
xuất thân từ các bộ của chính phủ,
bao gồm Hội đồng Nhà nước, Bộ Giáo dục, Bộ Ngoại giao và Bộ Văn hoá. Sự
liên hệ với chính quyền Trung Quốc khiến cho các Viện Khổng học bị chỉ
trích. Các Viện Khổng học được thiết lập với khuôn mẫu đối tác - một mối
hợp tác giữa Hán Ban, một trường Đại học Trung Quốc và một trường Đại
học nước ngoài - đặc biệt là tâm điểm của những quan ngại về quyền tự do
giáo dục. Ví dụ như nếu các chủ đề mang tính nhạy cảm đối với chính phủ
Trung Quốc - Tây Tạng, Đài Loan, quân đội Trung Quốc, Pháp Luân Công -
được đưa ra tại Viện Khổng học nằm trong khuôn viên Đại học Kentucky thì
liệu các học sinh và giáo sư được phép thảo luận không?
Những quan ngại này đã được đề cập đầy đủ trong điều trần của Steven Mosher, chủ tịch Học viện Nghiên cứu Dân số, tại phân ban Theo dõi và Điều tra thuộc tiểu ban Ngoại vụ Hạ viện Hoa Kỳ vào năm 2012:
Các Viện Khổng học được giải thích là những học viện phi lợi nhuận cùng hướng với chính quyền Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc với mục đích là khuếch trương ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc, cũng như tạo điều kiện cho những trao đổi văn hoá. Mục đích có vẻ là vô hại này đã không đề cập đến một số những mục đích hiểm độc và nổi bật khác, cụ thể là làm trong sạch hình ảnh Trung Quốc ở nước ngoài, nâng cao “quyền lực mềm” của mình trên thế giới và tạo ra một thế hệ những người theo dõi tình hình Trung Quốc mới gần gũi với chế độ Cộng sản độc tài.
Tôi tin rằng bất chấp những lời lẽ của những người ưa cảnh báo như
trên, thì hệ thống Viện Khổng học có tiềm năng để trở thành một nỗ lực
ngoại giao công chúng hữu hiệu của Trung Quốc. Tuy nhiên, Hán Ban cần
phải thực hiện những bước sau để bảo đảm các Viện Khổng học được xem là
có uy tín trên toàn thế giới. Trước tiên, Hán Ban cần tách mình và tổ
chức các Viện Khổng học xa hơn nữa khỏi chính quyền Trung Quốc, ngay cả
khi nó đã tự nhận mình là “một tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận có
liên hệ với Bộ Giáo dục Trung Quốc.” Cơ chế mới này có thể được tài trợ
bởi các đại học Trung Quốc, từ lệ phí thu từ thành viên, từ lợi nhuận
có được từ việc bán các sách vở và tài liệu, cũng như khoản cung cấp
dành cho giáo dục của chính quyền được xin một cách chính thức và không
thiên vị. Hán Ban nên tách xa ra khỏi chính quyền càng nhiều càng tốt.
Dù mọi tai tiếng sẽ không hoàn toàn bị xóa hết, nó cũng giúp dẹp bỏ quan
điểm rằng nhà nước Trung Quốc đang sử dụng các khuôn viên Viện Khổng
học như một phương tiện để phát triển điều mà phương tây lên án là tuyên
truyền, để thực hiện những hoạt động tình báo, và để kiểm duyệt những
chủ đề nhạy cảm. Các trường đại học không phải của Trung Quốc sẽ bớt
ngần ngại trong việc hợp tác trực tiếp với các đại học Trung Quốc, qua
đó làm tăng vị trí của các trường Trung Quốc trong hệ thống giáo dục
toàn cầu, trong khi đo tiếng Quan Thoại và văn hoá Trung Quốc có thể
được quảng bá và phát tán mà không bị trói buộc vào những hành động của
chính quyền trong quá khứ.
Ví dụ như ngành dạy Tiếng Anh như một Ngôn ngữ thứ Hai (English as a
Second Language - ESL) tại Đông Á. Có hàng chục nghìn trường ESL rải rác
khắp khu vực. Đại đa số là không phụ thuộc vào bất kỳ chính phủ nào và
tạo lợi nhuận rất đáng kể. Khi cha mẹ ghi danh cho con học các lớp ESL,
họ không xem đấy như là một hoạt động tuyên truyền của Mỹ mà là những
phương tiện dể chuẩn bị cho con cái mình bước vào thế giới toàn cầu hoá.
Tuy nhiên, một số lớn các giáo viên ESL tại Đông Á đến từ Hoa Kỳ. Thêm
vào đấy, tiếng Anh ngày nay gắn liền với những hình ảnh của Hoa Kỳ và
giấc mơ Mỹ. Vì thế, hệ quả là trẻ em theo học các lớp ESL thường được
tiếp cận nhiều với tư tưởng và văn hoá Mỹ cũng như cách phát âm kiểu Mỹ.
Đây là một hoạt động ngoại giao công chúng không tốn kém của chính
quyền Hoa Kỳ. (Thay thế các giáo viên Mỹ với giáo viên Anh Quốc hoặc Úc
hoặc Ấn Độ, và hiệu quả vẫn tương tự cho các quốc gia ấy.)
Một tổ chức các Viện Khổng học độc lập có thể hoạt động để thiết lập
nền tản cho một chương trình Tiếng Trung như một Ngôn ngữ thứ Hai (CSL).
Chính quyền Trung Quốc không được quyền điều khiển tư tưởng của ngành
này - rõ ràng là một viên thuốc đắng khó nuốt - nhưng nó sẽ có hiệu quả
hơn cho ngoại giao công chúng của Trung Quốc hơn bất kỳ chương trình nào
do nhà nước Trung Quốc bảo trợ. Nhiều người sẽ trở nên quan tâm hơn vào
tiếng Quan Thoại và văn hoá Trung Quốc, từ đó sẽ làm họ hào hứng để
thăm viếng và du học ở Trung Quốc hơn.
Có thêm các Viện Khổng học tại nước ngoài, vừa độc lập lẫn hợp tác
với các trường đại học cũng sẽ tạo lợi ích cho các quốc gia chủ nhà. Các
nhân viên điều hành và giáo viên sẽ có được những kinh nghiệm trực tiếp
khi làm việc và sinh sống tại quốc gia chủ nhà. Từ đó họ sẽ chia sẻ
những kỷ niệm tích cực với mạng lưới bạn bè của mình tại Trung Quốc. Các
Viện Khổng học, nếu được độc lập về quản lý và nội dung, sẽ có thể trở
thành một phương tiện trao đổi thông tin song phương đối xứng, đấy cũng
là mục tiêu tối thượng của chính sách ngoại giao công chúng.