Thuận Văn (Theo Lexuanquang.org)
Võ Nguyên Giáp đã về với đất giữa
những tiếng tung hô về “thiên tài quân sự” và “phẩm cách thánh nhân”
của ông, giữa những lời phân trần biện minh cho thất bại chính trị của
ông, cả những nhận xét điềm đạm hay phê bình gay gắt nhất đối với ông.
[1] Không nhất thiết phải đóng góp thêm cái không khí ồn ào khi “tang lễ
quốc gia” sặc mùi đồng bóng vừa mới bị cắt ngang một cách chưng hửng
ngay tại thủ đô để tiếp khách giống như là… chạy cưới, tôi vẫn cảm thấy
thiếu thiếu, vẫn còn có một câu hỏi chưa có lời đáp ở nhân vật này. [2]
Câu hỏi đó là: “Trời” sinh ra Võ Nguyên Giáp để làm gì?
Đã ca ngợi ông là một “thiên tài
quân sự”, là “thánh nhân” thì phải thừa nhận chuyện “Trời sinh”: sinh
ông ra, rồi phú cho ông một “thiên tài”, một phẩm cách “thánh nhân”, ắt
hẳn “Trời” đã sắp đặt sẵn cho ông một chương trình, một mục đích và ý
nghĩa nào đó, cho đời.
Như thế thì cái ý nghĩa “thiên
mạng” đó phải thể hiện trong sự nhất quán, trong mối quan hệ tương liên
giữa những chặng đời mâu thuẫn mà những kẻ xưng tụng ông vẫn ấm ức gọi
là “nghịch lý”, cái “nghịch lý” của cuộc đời khởi đầu vinh quang trong
vai trò “cầm quân” tại chiến trường Việt Bắc để rồi tiếp tục một cách ê
chề với những tháng năm “cầm quần” giữa những mưu mô chính trị hậu cung
tại Hà Nội, nói theo một câu ca dao hiện đại. [3]
Sự nhất quán giữa hai thái cực
“cầm quân” và “cầm quần” ấy có thể nhìn qua học thuyết của Thomas
Malthus, nhưng đầu tiên là “thiên tài” và phẩm cách của ông Giáp.
Chúng ta thán phục một người là
có “tài” khi kẻ đó làm được những điều mà kẻ khác làm được nhưng làm
bằng cách nhanh hơn, với cái giá rẻ hơn mà có thể đem lại kết quả hay
hơn. Chúng ta ngưỡng mộ một bậc “thiên tài” khi kẻ đó làm được những
điều độc sáng mà chưa ai từng làm được hay, không chỉ hơn khối kẻ bình
thường khác qua cách làm nhanh nhất, bằng cái giá rẻ nhất nhưng mang lại
kết quả mỹ mãn nhất mà còn có thể, qua cách ấy hay việc ấy, để lại một
dấu ấn hay những ý nghĩa khó phai nhạt qua những ảnh hưởng đến người
khác, ít ra là trong lĩnh vực của mình.
Nếu “thiên tài” của Võ Nguyên
Giáp kết tinh ở chiến thắng Điện Biên Phủ “lẫy lừng” thì cái tài trời
phú ấy không thể chấm hết sau phút giây bắn pháo hoa mừng chiến thắng mà
còn phải để lại những ý nghĩa “lẫy lừng” nào đó, ít nhất là cho riêng
vùng đất ấy, và ít ra là trong đường lối quân sự sau đấy.
Ông là “thiên tài quân sự”, thế
nhưng với những đồng chí thuộc vai vế đàn em “thiên tài” ấy chẳng có một
tý ty trọng lượng, chẳng để lại một dấn ấn hay ý nghĩa hay ảnh hưởng
nào, ngay trong lĩnh vực quân sự. Gạt ông ra ngoài trong những quyết
định trọng đại về chiến tranh, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã không đếm xỉa gì
đến “thiên tài” của ông. Chiến dịch Mậu Thân, họ chỉ báo trước có một
ngày. Chiến dịch Quảng Trị, khi xương cốt bộ đội trắng cả đáy dòng Thạch
Hãn, họ cũng bỏ ngoài tai những ý tưởng chiến thuật của ông. [4]
Và “chiến thắng lẫy lừng” ấy cũng
chẳng mang lại một ảnh hưởng tích cực nào cho những vùng đất hay con
người đã trực tiếp và gián tiếp trả giá. Không nói xa xôi đến “đất nước”
hay “dân tộc”, gần ba phần tư thế kỷ sau ngày chiến thắng, những “an
toàn khu”, những “căn cứ địa”, những “chiến khu gió ngàn” nuôi dưỡng nên
chiến thắng ấy vẫn tiếp tục là những vùng đất đói nghèo nhất nước và,
phần đông, thế hệ trẻ lớn lên ở đó, muốn đổi đời thì chỉ có thể, hoặc
ngược sang Lào theo những “cung đường ma túy”, hoặc bỏ xuôi làm thuê hay
làm đĩ. [5]
Giới hâm mộ Võ Nguyên Giáp viện
dẫn sự thất thế chính trị để biện minh cho sự vô can của ông trước giá
đắt trong Mậu Thân 1968 và Quảng Trị 1972-1973, thế nhưng cái giá của
Điện Biên Phủ 1954 đâu có rẻ chút nào? Bao nhiêu nông dân cầm súng đã
gục ngã, bao nhiêu tài nguyên đã tiêu tốn và những món nợ “xã hội chủ
nghĩa anh em” với hậu quả nhãn tiền về sự phụ thuộc? Mà, xét cho cùng,
nếu tướng tài là vị tướng không cần đánh mà có thể lấy được thành thì,
chẳng cần đến những “chiến công chấn động thế giới” kiểu ấy, những cựu
thuộc địa có cùng hoàn cảnh tại Á châu không chỉ đã giành lại độc lập
với cái giá rẻ hơn mà, hơn thế nữa, còn vươn tới những kỳ tích hậu thuộc
địa lẫy lừng hơn, rất nhiều.
“Chiến thắng lẫy lừng” ấy là một
món hàng xa xỉ, cực kỳ hoang phí, không chỉ hoang phí bằng xương bằng
máu mà còn hoang phí bằng sự tụt hậu và phụ thuộc, phụ thuộc ngay vào kẻ
thù truyền kiếp, kẻ thù đã xâm lăng đất nước chúng ta nhiều lần hơn ai
hết, chiếm đóng đất nước lâu dài hơn ai hết.
Cái chiến thuật thí thịt người
chẳng có gì độc đáo sáng tạo về mặt quân sự của ông Giáp, gợi nhắc một
giai thoại về Napoléon Bonaparte khi bị một viên thống chế dưới quyền
thắc mắc trước một quyết định thí quân: “Chỉ một đêm của Paris là đủ”.
Chỉ một đêm thôi, và riêng tại Paris thôi, sẽ có bao nhiêu cặp nam nữ
cuồng nhiệt quấn quýt vào nhau, sẽ có bao nhiêu tinh trùng bắn ra, sẽ có
bao nhiêu tinh trùng tiến về bắt rễ trong buồng trứng để từ đó mở ra
một mầm sống mới và, với Napoléon, thế là đủ. Đủ để bù lại những sinh
mạng bị ông ta vung vãi trước trận địa mà đối phương đã bày bố sẵn sàng.
Như thế phải có một điểm nhất
quán nào đó trong “vinh quang” của vị “anh hùng chiến thắng” vào năm
1954 với sự cam chịu thụ động đến bạc nhược của vị “thống chế đặt vòng”
vào năm 1983, khi ông ta trở thành “Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và
Sinh đẻ có kế hoạch”. [6]
Để hiểu được sự nhất quán ấy, có
lẽ, phải nhắc qua học thuyết của Thomas Malthus (1766 – 1834), một giáo
sĩ và là một nhà kinh tế học nối tiếng người Anh.
Năm 1798 Malthus xuất bản cuốn
khảo luận An Essay on the Principle of Population (Một tiểu luận về
nguyên tắc dân số) và, thế là, những lời công kích nổi lên. Để đáp trả
những lời chỉ trích và củng cố lý thuyết của mình, từ năm 1799 đến 1802
Malthus thực hiện chuyến du khảo năm năm xuyên suốt Âu châu để rồi tái
bản quyển sách trên với sự minh định rằng quan điểm chính vẫn không hề
thay đổi. Vẫn bị công kích dữ dội nhưng vẫn thu hút sự chú ý rất đặc
biệt và cuốn sách ấy của Malthus đã đuợc tái bản đi, tái bản lại nhiều
lần.
Điều khiến Malthus vừa bị công
kích vừa lôi cuốn sự chú ý là cách phân tích nguyên nhân của nạn bần
cùng như là hậu quả tất yếu của tình trạng quá tải dân số. Theo
Malthus thì dân số tăng theo cấp
số nhân trong khi kinh tế chỉ tăng trưởng theo cấp số cộng, và khi nền
kinh tế không đáp ứng nổi nhu cầu của một dân số quá đông thì bần cùng
là hệ quả tất yếu. Vấn đề là làm thế nào để giải quyết nạn ấy và, theo
Malthus, khi con người bó tay, không “giải quyết” được sự bùng nổ dân
số, thì “tự nhiên” sẽ bắt tay thực hiện. Khảo sát thật kỹ các xã hội
trong suốt chiều dài lịch sử của nó, Malthus đi đến kết luận rằng các
biến cố lớn liên quan đến nạn đói, thiên tai, bệnh dịch và chiến tranh
đều gắn liền với những “khó khăn về dân số”.[7]
Hẳn nhiên học thuyết của Malthus
không hoàn toàn đúng và không phù hợp với thực tế của hôm nay sau bao
nhiêu bể dâu về kinh tế về khoa học và kỹ thuật thế nhưng mối ám ảnh
“khó khăn dân số” ấy vẫn tiếp tục hiệu lực, vẫn dai dẳng đeo bám nhân
lọai, thậm chí từng ám ảnh cả nhà thơ Tú Xuơng của chúng ta, qua bài thơ
“Chúc Tết”: Lẳng lặng mà nghe nó chúc con/ Sinh năm đẻ bảy được vuông
tròn./ Phố phường chật hẹp, người đông đúc,/ Bồng bế nhau lên nó ở non
Ba năm sau khi Tú Xương lìa đời
thì Võ Nguyên Giáp mới chào đời. Và bốn mươi bốn năm sau khi ông Giáp
chào đời thì ám ảnh ấy đã phần nào giải quyết bằng chiến thuật thí thịt
người tại Điện Biên Phủ cùng muôn vàn những trận đánh tương tự trước đó
hay sau đó với những quy mô nhỏ hơn. Nếu chiến tranh, theo cái nhìn của
Von Clausewitz, là sự “tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện
khác” thì, phải chăng, “người hùng chiến tranh” Võ Nguyên Giáp, như một
kẻ hoàn toàn thất bại về chính trị, chính là hiện thân của sự “can thiệp
của tự nhiên” để giải quyết những “khó khăn về dân số”?
“Tự nhiên”, ở đây, nên hiểu là
“Trời” và nếu nhìn như thế thì sẽ thấy ngay cái mẫu số chung hay mối
quan hệ “biện chứng” giữa đoạn trước và đoạn sau của cuộc đời ông. Cơ hồ
“Trời” sinh ông ra là để giải quyết những khó khăn đã ám ảnh Malthus.
Đoạn đầu đời xông xáo trên mặt trận, ông “giải quyết khó khăn” bằng cách
đẩy những mầm sống đã đạt tuổi trưởng thành vào trận địa theo chiến
thuật thí thịt người. Nửa đời sau thầm lặng trong nền chính trị hậu
trường, ông “giải quyết khó khăn” với những cái bọc condom, những sợt
dây thắt ống dẫn tinh và hay những vòng tránh thai để phong toả, ngăn
không cho tinh trùng tiến về với trứng.
Giới hâm mộ xem đó là “thăng
trầm” của đời ông Giáp và ca tụng đó là chữ “nhẫn” của bậc thánh nhân,
là “phong cách trí thức” của một tướng lĩnh “có văn hoá”. Nhưng tính
cách của bậc trí thức không chỉ hình thành từ việc đọc sách, việc làu
thông kim cổ hay, giữa một đám lãnh tụ công nông đàn gảy tai trâu, “biết
đánh cả đàn pinao”. Và, ngoài chữ “nhẫn”, tiếng Việt còn có thêm từ
“khí tiết”. Nếu “nhẫn” không có nghĩa là bạc nhược thì “phong cách trí
thức” không có nghĩa là phải giữ sự mềm mỏng và thụ động của con người
chỉ biết mỗi một việc đọc sách. Mềm mỏng, hay cứng cỏi, người trí thức
phải quyết liệt, không lùi bước, không khoan nhượng để bảo vệ lẽ phải và
sự thật. Đó là thái độ của Emile Zola khi lên tiếng “Tôi kết tội” để
bảo vệ Alfred Dreyfus, viên sĩ quan gốc Do Thái bị cả guồng máy quân sự
và chính trị Pháp toa rập để vu khống tội gián điệp. Dreyfus chẳng can
dự gì đến Zola và nhà văn này lên tiếng là để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự
thật, nhưng còn ông Giáp? Như một “đại tướng – trí thức – anh hùng”, ông
đã làm gì để bảo vệ lẽ phải và sự thật khi chính những tướng lĩnh và sĩ
quan tâm phúc của mình như Đặng Kim Giang, Lê Liêm hay Đỗ Đức Kiên bị
vu khống là gián điệp?
Không chứng tỏ một nỗ lực tối
thiểu để bảo vệ lẽ phải và sự thật, để trọn chữ nghĩa tình với những
người từng vào sinh ra tử với mình thì có thể nào đạt đến chuẩn mực xử
sự của bậc thánh nhân? Những kẻ chỉ trích vin vào điều này để cho rằng
ông hèn nhát. Thì đó cũng là một cách nhìn nhưng từ góc độ của Malthus
và ý nghĩa “Trời sinh” thì chẳng có gì là anh hùng hay ươn hèn trong cái
cuộc đời đó cả. Trời sinh ông để “giải quyết những khó khăn” về dân số
và ông phải sử dụng bất cứ vai trò nào có thể sử dụng được để thực hiện
sứ mạng đó theo đúng nguyên tắc “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” mà
Niccolò Machiavelli đã nêu ra trong The Prince (Quân Vương).
Cuốn sách được xem là kinh điển
về chính trị thực dụng này được xuất bản năm 1532, năm năm sau khi
Machiavelli qua đời. Trong công trình mỏng tang của mình, Machiavelli đã
nhấn mạnh rằng, trong chính trị, yếu tố hiệu năng và thực tiễn phải
được đặt lên lên trên giá trị đạo đức hay các khái niệm trừu tượng, và
để sống còn, những lãnh tụ chính trị phải biết cách học hỏi từ loài dã
thú:
“Bậc quân vương phải học hỏi từ
bản chất của loài thú để kết hợp sức mạnh của con sư tử với sự tinh ranh
của loài cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình trước các cạm bẫy nhưng
cáo thì không thể chống lại loài chó sói. Vì thế, cần phải là cáo để
nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để dọa chó sói.” [8]
Nếu “thiên tài quân sự” là kẻ
phải thể hiện sự dũng mãnh của loài “sư tử” thì ông, “Thiên tài quân sự
Võ Nguyên Giáp”, còn có nhiều lợi thế trên đấu trường chính trị hậu cung
khi đã từng là “cáo” và cũng từng là “sói”. Trước khi thực sự chống lại
thực dân ông đã đóng vai trò chủ chốt trong những cuộc thanh trừng khốc
liệt nhắm vào các đảng phái quốc gia chỉ để giành lấy độc quyền chống
thực dân, nghĩa là từng giăng bẫy như “cáo”. Trước khi là Bộ trưởng Quốc
phòng và Tổng Lư lệnh Quân đội, ông đã là Bộ trưởng Nội vụ đầu tiên của
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và, trong vai trò ấy, đã ký nghị
định để chống lại cái gọi là các tổ chức quốc gia “phản động” tháng Chín
năm 1945, nghĩa là đã vồ mồi như “sói”.
Đã là “sư tử”, đã từng giăng bẫy
như “cáo” và từng vồ mồi như “sói”, tại sao ông có thể dễ dàng đầu hàng
trước những đồng chí chỉ đáng mặt là “cáo” hay “sói” như Lê Duẩn và Lê
Đức Thọ?
Cũng chẳng có gì đáng gọi là
“nghịch lý” trong mối quan hệ tưởng là mâu thuẫn này cả khi một “đại
tướng anh hùng” dễ dàng bỏ rơi đồng đội, dễ dàng nhìn những ý tưởng mà
mình tin là có lợi cho đất nước bị vứt bỏ vào sọt rác mà, thậm chí, còn
là một sự nhất quán và thông suốt nếu nhìn theo những góc độ nói trên.
“Trời” sinh ông thế và, cơ hồ, cả trong cái thời sung mãn nhất về thế
chất và trí lực của mình, ông, “Đại tướng Võ Nguyên Giáp”, chưa bao giờ
cảm thấy có đủ tự tin với “thiên tài”, với “thiên mạng” của bậc anh hùng
cứu thế trong tầm vóc của một con sư tử của mình. “Trời” không sinh ông
để sống trọn vẹn ý nghĩa của một con người huyền thoại. Trời sinh ông
ra để giải quyết những “khó khăn về dân số”.
“Thiên mạng” của ông là giải
quyết những “khó khăn về dân số” còn chế độ toàn trị thì đang lúng túng
với “thiên mạng” của mình trước một “dân số khó khăn”. Lúng túng vì
người dân ngày càng trưởng thành hơn. Lúng túng vì càng ngày càng lộ
liễu cái bản chất phản động và thối nát nhiều hơn. Thế là, sau bao nhiêu
năm bị bỏ quên, phải tìm quên trong thiền và trong kinh Phật, ông được
vực dậy, được công kênh như
một huyền thoại chiến tranh. Ông
càng rũ xuống, càng vật vờ trong đời sống thực vật trên giường bệnh bao
nhiêu, cái chiến dịch phục dựng huyền thoại chiến tranh ấy càng rầm rộ
bấy nhiêu.
Nhưng, luôn luôn, cái mà nền toàn
trị cần là những huyền thoại chỉ để thờ, thờ sống hay thờ chết. Nó chỉ
cần cái bài vị, cái vừng sáng lung linh nhang nến quanh một nhân vật để
công chúng kính cẩn gập mình xuống lạy chứ không phải những giá trị thực
tiễn mà kẻ đó có thể đóng góp. Hồ Chí Minh cũng vậy mà Võ Nguyên Giáp
cũng vậy. Cũng chỉ đơn thuần là hai cái bài vị để cho công chúng lạy,
lạy sống hay lạy chết. Thập niên 60, hệ thống quyền lực đó vừa thờ sống
Hồ Chí Minh, vừa gạt ông qua một bên. Chỉ cách đây mấy năm thôi, hệ
thống đó cũng vừa rầm rộ “lạy sống” ông Giáp, vừa thẳng tay vứt vào sọt
rác những “tâm can” mà ông trút cạn khi hệ thống quyền lực tự đâm vào cổ
mình bằng cách mời mọc kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đến cắm rễ ngay
tại vùng đất chiến lược. [9]
Những kẻ hâm mộ ông lấy làm ấm ức
vì trong bài điếu văn chính thức đọc trong tang lễ, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã không đề cập về ông như một “anh hùng” mà chỉ gọi suông là
“nhà lãnh đạo uy tín.” Theo họ ông là “anh hùng dân tộc”, là “hồn thiêng
sông núi” v.v… và, theo những dòng người rồng rắn đưa tang, những mỹ từ
này đã rồng rắn nối đuôi nhau trên các phương tiện truyền thông để tấn
công vào suy nghĩ của công chúng, để bám vào suy nghĩ của thế hệ mới
lớn. [10]
Xung tụng ông thế nào, là “thiên
tài quân sự”, là “bậc thánh nhân” v.v… là tùy bởi việc đó quyền, là năng
lực nhận thức, là trí tuệ của từng người. Nhưng nếu gọi một nhân vật
như thế – “sư tử” không ra “sư tử”, “sói” không ra “sói” và “cáo” không
ra “cáo” – là “hồn thiêng sông núi” hay “anh hùng dân tộc” thì quả là
một sự báng bổ và xúc phạm. Nó báng bổ tổ tiên. Nó xúc phạm đến sông núi
thiêng liêng. Nó xúc phạm những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt. Lê Lợi hay Nguyễn Huệ v.v…
Và nó xúc phạm đến cả chúng ta,
những người đang mang ơn những người con kiệt xuất của dân tộc ấy, những
anh hùng đã thực sự bảo vệ đất nước trước dã tâm nghiền nát và nuốt
chửng của kẻ thù truyền kiếp, cái kẻ thù đang vừa kêu ca đòi chia chác
thứ “vinh quang” xây trên xác người ở Điện Biên Phủ, vừa vận dụng cả
trăm ngàn trò trí trá để bóp nghẹt môi trường và nguồn sống của chúng
ta, dồn ép chúng ta vào cảnh kiệt quệ và chết dần chết mòn, cũng với dã
tâm nghiền nát và nuốt chửng. [11]
17.10.2013
Chú thích
[1] Hiện có rất nhiều ý kiến tôn
sùng Võ Nguyên Giáp là bậc “thánh nhân”, thí dụ như: Nguyễn Như Phong,
“Người là bậc Thánh Nhân!” [2] Tang lễ kết thúc lúc 5 giờ chiều tại
Quảng Bình nhưng trước đó, vào buổi trưa, cờ tang ở Hà Nội đã được tháo
bỏ để đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
[3] Có thể kể mấy câu liên quan đến việc Võ Nguyên Giáp nhận chức vụ này:
Năm xưa đại tướng cầm quân
Năm nay đại tướng cầm quần chị em Hay:
Năm xưa đánh giặc công đồn
Nay về quản lý cái l** chị em
[4] Có rất nhiều tài liệu về việc
này, trong đó phần cô đọng nhất là chương viết về Võ Nguyên Giáp trong
cuốn Bên thắng cuộc II: Quyền bính, của Huy Đức.
[5] Có thể tham khảo một số bài
báo tiêu biểu: – Hải Chung, “Xóa đói, nghèo ở chiến khu xưa” – Nguyễn
Đăng Tấn, “Mùa Thu cách mạng, về thăm chiến khu xưa” -“Na Ư- tụ điểm
buôn bán cái chết trắng”.
[6] Câu này liên quan đến việc Tố Hữu trở thành Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế: “Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng”.
[7] Hẳn nhiên tính toán của
Malthus không hoàn toàn phù hợp với thực tế và trong hai thế kỷ sau đó
tốc độ tăng dân số vẫn xảy ra mà không bị cản trở bởi nghèo đói tại các
nước kỹ nghệ như Âu châu. Một trong những người chỉ trích Malthus kịch
liệt nhất là Friedrich Engels – đồng chí kiêm môn đệ của Karl Marx. Theo
ông tổ số hai của chủ nghĩa cộng sản thì Malthus đã không thấy được các
yếu tố như quá trình tích sản, tích lũy giá trị thặng dư của giai cấp
bóc lột, cũng không thấy được vài trò của khoa học v.v…
[9] Võ Nguyên Giáp đã ba lần viết
thư gởi Bộ Chính trị đề nghị chấm dứt dự án bauxite Tây Nguyên, tuy
nhiên lời ông bị gạt qua một bên, thậm chí những kẻ có trách nhiệm đã
không thèm trả lời.
[10] Thí dụ các bài báo hay bản
tin: – Thùy Linh, “Đại tướng ơi! Người đã thành hồn thiêng sông núi” –
Hoàng Điệp – Lam Giang – TTXVN, “Quốc tang anh hùng dân tộc Võ Nguyên
Giáp”.
[11] Có nhiều tài liệu từ phía
Trung Quốc nhấn mạnh vao trò của các cố vấn Trung Quốc, thí dụ: “Hồi kí
cố vấn Trung Quốc (3) -Vai trò của Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) qua lời
kể của viên thư kí” [Bản dịch của Dương Danh Dy].
© 2013 Thuận Văn & pro&contra