LTG.
Giời ạ!
Các bạn Hà Lội cứ việc nhận mình là người Hà Nội cho oai – tôi đây
chẳng biết nói năng ‘nàm thao’ cho phải đạo! Mẹ tôi là người Hà Nội
chính gốc con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư trước khi các bác đỉnh
cao trí tuệ san bằng giai cấp thủ đô để mọi người ở khắp nơi đổ về nhập
cư và chiếm cứ gia cư và tài sản của đám tư bản và trí thức mại sản này.
Ngay cả Bà Ba Bủng theo lệnh trên vào độ Cách mạng mùa Thu năm ấy cũng
phải sơ tán chạy mất dép theo những người như mẹ tôi vào Nam.
Để bây giờ các bạn gốc gác Hà-Nam-Ninh hoặc bất cứ nơi quê hương hang
hốc nào đó cũng tự hào mình là người Hà Nội thủ đô ‘đầu lão của đất
lước’! Oải thật!
Bên trên là comment của người viết khi tình cờ vào trang Facebook của
một người bạn Hà Nội có post bài “Tôi Không Tuyển Người Hà Nội” từ
Vietnamnet (Bài này không còn tìm thấy trên VNN, nhưng vẫn còn đọc được
trên TTXVA), đại ý:
“Hơn chục năm lăn lộn trên thương trường, tôi gần như không
tuyển người Hà Nội vào công ty, những vị trí nhân sự chủ chốt đều do
người ngoại tỉnh nắm giữ.
Cách đây chỉ một tuần, do quá bực mình, tôi chỉ thẳng mặt một cậu nhân viên rồi nói:
‘Mày đi thẳng ra khỏi công ty đi, những thằng như mày, chỉ dựa dẫm
gia đình, sinh ra sướng sẵn rồi, nên không bao giờ làm được việc nếu
không chịu khó rèn luyện đâu. Mày đừng bao giờ coi khinh người nhà quê,
người ngoại tỉnh, mày nhìn xem, năng lực, những cái mày làm được, liệu
có bằng người ta không?’
Cậu này, người Hà Nội gốc, vốn do một ông sếp gửi gắm, là cháu ông
ta. Do cần phải quan hệ, tôi buộc phải nhận vào, nhưng làm việc thì
không ra gì mà còn hay chém gió, hay coi thường người khác. Hơn chục năm
lăn lộn trên thương trường, tôi gần như không tuyển người Hà Nội vào
công ty, những vị trí nhân sự chủ chốt đều do người ngoại tỉnh nắm giữ.”
Tôi đọc và để ý thấy những lời góp ý/comments hầu hết đều có ý chê
bai, dè bỉu tác giả, một người ngoại tỉnh vào Hà Nội ăn học thành tài,
làm chủ một công ty lớn, trở nên giàu có, nhưng chính ông vẫn không chấp
nhận được tính trịch thượng, biếng nhác, và ỷ lại của người Hà Nội (đời
nay). Không biết bao nhiêu kẻ khinh khi, miệt thị tác giả ‘nhà quê’ này
là người Hà Nội đời nay, nhưng rõ ràng những phê phán góp ý của họ mang
nhiều tính tự tôn, tự đại mà theo tâm lý học hàm ý che đấu tính tự ti
mặc cảm của mình. Ngẫm lại bỗng thấy buồn cười cho chính những người thủ
đô, tự hào và tự gán cho mình gốc gác Hà Nội. Không hiểu đến thời đại
nào thì hai câu thơ sau đây còn có thể được ví von về người Hà Nội một
cách không gượng ép?
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
Theo
thiển ý, hai câu này khó có thể áp dụng theo đúng ý của nó để mô tả nét
trang nhã của người Hà Nội đời nay, kể từ sau cách mạng tháng Tám khi
Đảng Cộng sản ra đời và chiến tranh giai cấp đã tước mất đi nhiều vẻ
thanh lịch của Hà Nội. Chớ vội nói đến điển tích của thời kỳ vàng son và
phong kiến của nhà Hán với cổ thành Trường An của họ. Khoan hẵng nói
đến những gì gần hơn của Việt-Nam: một bài thơ do Nguyễn Công Trứ chắp
bút, một Hoa Lư huy hoàng, cố đô đầu tiên của Việt tộc được Lý Thái Tổ
đổi tên là Tràng An, cũng như Đại La trở thành kinh đô Thăng Long. Hai
câu thơ trở nên ca dao trên chính là lời ngợi ca – trên bình diện tao
nhã – một Hà Nội của Việt Nam một thời bình an nào đó, mà có lẽ những
người như tôi, như những người trẻ khác thích o ép nó thành một Hà Nội
thời thượng của riêng mình.
Và đó chính là nỗi chán chường và bực dọc của tôi (xem Lời Tác giả/chapeau bên trên).
Thật thế, về Việt Nam nhiều lần tôi cảm nhận và học hỏi được nhiều
điều. Không ít những chuyện muốn thu thập là những lần lân la ra đất
Bắc. Để tìm về cội. Để tìm về thực. Để tìm về hư. Để tìm về cái còn cái
mất. Khuất tất và khắc khoải. Ngay lần đầu tôi đã nôn náu thấp thỏm tìm
về vẻ đẹp, vẻ nên thơ trang nhã của Hà Nội, bao năm nhận thức qua thi ca
và văn chương quốc ngữ. Những chuyện kể của họ hàng người lớn, kể cả
những huyền thoại và nhiều giai đoạn lịch sử còn chưa quên trong tâm
khảm.
Đầu thập niên ’90 khi nhiều người trong Nam vẫn chưa dám ‘bén mảng’
ra Hà Nội, bất chấp lời khuyên của bác tôi (di cư ’54) ở Sàigòn: “Này
cháu ngoài đấy người ta trí trá lắm không như trong Nam đâu nhé…” Tôi,
một người chân ướt chân ráo từ xứ cờ Hoa trở về, vẫn cứ đơn thân độc mã
lặn lội ra Hà Nội – nhất là một người sinh trưởng trong Nam trưởng thành
ở Mỹ như tôi chưa bao giờ đặt chân, chưa bao giờ biết đến quê hương
miền Bắc hoặc được tiếp thu trong hiện thực hình ảnh của một thời thơ
mộng – vì khi sinh ra đất nước chia đôi và chiến tranh dày xéo. Tôi
không thiếu lý do và những ý nguyện tốt lành khi về thăm quê mẹ mong tìm
lại nét ‘hoa nhài’ năm xưa thay vì chỉ là những hoài cảm.
Để rồi với thời gian, bộ mặt thật của Hà Thành ngày càng nhếch nhác
hơn khi các ông trong Bộ Chính trị và bí thư thành ủy càng cố sức chạy
đua cho kịp với Sàigòn, càng chạy đua càng ‘lệch lạc’, càng sái buổi
chợ. Bằng cách đòi hỏi tiền đầu tư của nước ngoài – trước khi họ muốn
đầu tư trong Sàigòn – phải đổ vào ‘mở mang’ (một cách vô lối thiếu có
quy hoạch của thành phố!). Hà Nội đã bước chệch hướng văn hóa còn sót
lại của nó. Lý do các nước ngoại quốc thích đầu tư trong Nam thật dễ
hiểu: sau bao năm tiếp xúc và làm ăn với nước ngoài, dân Sàigòn đã trở
nên sành sỏi và thiện nghệ, hiểu biết và tháo vát hơn người anh em miền
Bắc. Không kể bản chất cởi mở, thân thiện, thật thà, thông thạo đường
lối, biết giao du, hơn dân Hà Nội, cho nên các công ty Tây phương vẫn
thích làm ăn với Sài gòn. Thời 90 cho đến sau 2000, đố ai tìm được một
người thợ biết may một bộ complet cho tử tế ở Hà Nội (Bắc), chưa nói đến
máy ảnh, máy vi tính. Ngay cả xe ôtô, xe Honda, thợ thuyền Hà Nội
thường lâm bệnh ‘chữa lợn lành thành lợn què’.
Tuy thế, ‘không ít’ người Hà Nội thích phô trương tánh cao ngạo, đầy
tự ái, sĩ diện (bộ mặt thay vì ‘danh dự’) hão của mình, một phần có lẽ
để khỏa lấp khiếm khuyết của họ. Trong “Bên Thắng Cuộc” Quyển I, Huy Đức
đã thuật lại vấn đề ‘nhạy cảm’ như sau:
“Là một người Quảng Trị hoạt động ở Nam Bộ hàng chục năm, ông Lê
Duẩn hiểu và rất nhạy cảm trước các vấn đề Nam-Bắc. Trước năm 1975,
nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn
thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn.” Một lần, Ban Thống nhất thấy
tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông
Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không
tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ.”
Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật
đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống
nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời
họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: ‘Các đồng chí ra thăm
miền Bắc thấy gì?’ Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không
thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: ‘Các đồng chí không
hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng
có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong
khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc’. Rồi anh Ba hỏi: ‘Ở trong R,
các đồng chí có được dạy, ta đánh được Mỹ là nhờ truyền thống 4000 năm
của Việt Nam không? Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người
Việt Nam, không năm đời, thì mười đời cũng là gốc Bắc. Ra đây là tìm về
nòi giống, cội nguồn’. Khi đoàn ra khỏi phòng, ông Lê Duẩn bảo tôi: ‘Chú
xuống Viện Lịch sử, tìm một nhà sử học dẫn họ đi đến tận nơi thăm đền
thờ Hai Bà Trưng, Bà Triệu’. Khi họ đi về, anh Ba hỏi: ‘Đã hiểu cội
nguồn dân tộc chưa?’ Họ nói: ‘Hiểu’. Anh Ba gật đầu: ‘Bây giờ về được
rồi’.”
Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc
Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông
Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được,
người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng Chạp,
ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về
trước.” Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.
Sáng mùng Một Tết Bính Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời
tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào
bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền
Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ
vét hàng hóa.” Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an
báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp,” ông Lê Duẩn
tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.
Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh
Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp:
“Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những
việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện
các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta,
người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu
Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa.” (pp. 252-253)
Đấy là thời Lê Duẩn, nhưng hồi tháng Bảy năm nay (2013), nhân buổi
họp giữa chủ tịch Trương Tấn Sang với tổng thống Obama tại Nhà Trắng,
Nguyễn Hùng một nhà báo của BBC Việt ngữ, một bộ phận của thông tấn Anh
quốc mà ai cũng biết 100% nhân viên được tuyển chọn là người Bắc – không
biết bao nhiêu là người Hà Nội – đã phân tích và phê bình chuyện dịch
thuật của 2 thông ngôn viên cho hai vị quốc trưởng trong bài: “Rớt mất
đối tác toàn diện vì dịch thuật” một bài đầy cảm tính, thiếu trung thực.
Vì thiên kiến sẵn có, anh Nguyễn Hùng đã tự ý chọn người thông ngôn của
ông Sang và khen lấy khen để, cho rằng anh này “nói tiếng Việt giọng
Bắc” trong khi đó trong suốt hơn khoảng 10 phút dịch thuật, không ai
nghe anh (thông ngôn) ta nói một ngôn ngữ nào ngoài Anh ngữ. Và trong
thực tế, khi tìm ra ngọn ngành thì người dịch cho chủ tịch Trương Tấn
Sang chính là Phạm Xuân Hoàng Ân, con trai của ông Phạm Xuân Ẩn, gián
điệp khét tiếng của Việt Cộng (The Perfect Spy) một người miền Nam. Điều
này cho thấy tính kỳ thị vùng miền của anh Nguyễn Hùng rất nặng. Quý vị
đọc giả sẽ không đọc được câu hàm ý chê bai “nói tiếng Việt giọng Bắc”
này vì đã có người khiếu nại lên BBC nên cụm từ chia rẽ phân biệt vùng miền nay đã bị loại bỏ.
Mục đích bài viết này muốn nói lên một não trạng, một tật thói cần
phải loại bỏ cùng với những giả dối, lấp liếm mà chế độ Cộng sản đã thâm
nhập vào phong hóa Việt Nam trong suốt 3/4 thế kỷ qua, cầu mong rằng
trong giai đoạn này người Việt cần phải hiệp thông với nhau nhằm bài trừ
chuyện đặc quyền, đặc lợi của đảng Cộng Sản hay bất kỳ một phe phái
nào, hãy đối xử với nhau trong tinh thần bình đẳng và tử tế với ưu điểm
và đặc tính thuần Việt. Còn chuyện:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
thì còn tùy vào cách xừ thế và phong thái cũng như văn hóa của
từng con người, không tùy thuộc vào vùng miền. Do vậy ai cũng có thể là
con người thanh lịch xứ Tràng An!
© Nguyễn Khoa Thái Anh
© Đàn Chim Việt