Báo Người đưa tin có hẳn một chuyên mục về những tranh cãi chung
quanh cáo buộc đạo văn trong luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế.
Theo dõi những diễn biến trong vụ này tôi thấy hình như người ta nhầm
lẫn giữa đạo đức khoa học và pháp lí. Để biết đầu đuôi câu chuyện tôi
tóm lược câu chuyện như sau (trước là để tôi hiểu, sau là lưu làm tư
liệu và chia sẻ cùng các bạn đọc):
Ông Hoàng Xuân Quế tốt nghiệp tiến sĩ từ Đại học Kinh tế Quốc dân
(nghe nói là một “trường lớn” của Việt Nam) từ năm 2003, nay đã được
phong hàm phó giáo sư. Đột nhiên, năm nay có người (Gs Nguyễn Văn Nam)
cáo buộc rằng một phần luận án tiến sĩ của ông là cóp từ luận án của ông
Mai Thanh Quế (bảo vệ trước ông HXQ 1 năm). Thanh tra Bộ Giáo dục và
Đào tạo kết luận rằng quả thật có đạo văn, và Bộ ra quyết định tước bằng
tiến sĩ của ông HXQ.
Nhiều người phản ứng quyết định của Bộ một cách dữ dội. Những người
hướng dẫn luận án của ông HXQ và Mai Thanh Quế đều cho rằng Bộ GDĐT làm
sai, rằng không có dấu hiệu đạo văn, rằng luận án được hội đồng chấm 7/7
(xuất sắc), hội đồng gồm những chuyên gia “đầu ngành” thì làm sao sai
được, v.v. Nhưng những người phản đối đều không chịu nhìn vào sự thật:
khoảng 34% nội dung luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông
MXQ trước đó! Đã có người làm thống kê so sánh hai luận án một cách công
phu và con số phần trăm trùng hợp rất gần với kết luận của Bộ GDĐT.
Nhưng nay câu chuyện có một cái “twist” mới về pháp lí. Báo Người đưa
tin phỏng vấn một luật sư ở Hà Nội về vấn đề này, và ông luật sư nói
rằng “Kết luận của Bộ Giáo dục vi phạm nghiêm trọng pháp luật”. Thật
ngạc nhiên! Tôi phải cố công đọc hết bài phỏng vấn để biết Bộ GDĐT vi
phạm luật gì. Đọc xong bài này tôi phải nói là tình trạng học thuật ở
bên nhà quả là một câu chuyện buồn. Những người có học như thế mà còn
không biết đạo văn là gì thì làm sao giảng dạy cho ai. Là người quan tâm
đến vấn đề này nhiều năm qua, và đã từng viết nhiều bài, nên tôi muốn
nhân bài phỏng vấn để bàn qua 3 điểm liên quan đến thế nào là đạo văn,
dung lượng luận án, và vai trò của người bình duyệt luận án.
Nhưng trước hết tôi muốn nhấn mạnh rằng đạo văn (và vài hành vi khác)
trong học thuật là thuộc về đạo đức khoa học chứ không phải luật pháp.
Chuẩn mực đạo đức không phải là luật pháp, mà là những qui ước hay điều
lệ về hành xử được các thành viên trong ngành nghề chuyên môn chấp nhận
như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề. Trong hoạt động khoa học,
hai chữ “hành xử” ở đây bao gồm các lĩnh vực chuyên biệt như thí nghiệm,
xét nghiệm, giảng dạy và huấn luyện, phân tích dữ liệu, quản lí dữ
liệu, chia sẻ dữ liệu, xuất bản ấn phẩm, trình bày công trình nghiên cứu
trước công chúng, và quản lí tài chính. Nếu thành viên trong ngành nghề
vi phạm những chuẩn mực đạo đức khoa học thì sẽ bị trừng phạt (chứ
không đi tù). Chẳng hạn như ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng Đức
Karl-Theodor zu Guttenberg đạo văn trong luận án tiến sĩ của ông, và hệ
quả là ông bị trường rút lại bằng tiến sĩ. Cũng có lẽ vì xấu hổ nên ông
tự xin từ chức bộ trưởng. Do đó, nói rằng không có qui định pháp luật
về đạo văn nên không thể kết luận gì về đạo văn là … nguỵ biện.
Thế thì câu hỏi đặt ra: đạo văn là gì? Câu hỏi này cần bàn ở đây vì khi bàn về luận án của ông Hoàng Xuân Quế, ông luật sư viết:
“Đặc biệt là về bản chất vụ việc, nếu ông Hoàng Xuân Quế có ‘chép’ tài
liệu của người khác, thì cũng là hành vi trích dẫn. Không có quy định
của pháp luật về việc thế nào là ‘đạo văn’ và phải trích dẫn thế nào
trong Luận án, nên không có cơ sở kết luận ông Hoàng Xuân Quế trích dẫn
hay sao chép ‘không hợp pháp’.” Tôi thấy câu này có vài điều cần
bàn thêm. Theo tôi biết chẳng có luật pháp nước nào qui định thế nào là
đạo văn cả, vì như đề cập trên, đây là vấn đề đạo đức học thuật. Nhưng
bất cứ ai làm trong khoa học đều biết thế nào là đạo văn hay có vài ý
niệm căn bản về đạo văn.
Một luận án, luận văn, hay bài báo khoa học là một tác phẩm / công
trình học thuật. Đứng tên tác giả công trình đó có nghĩa là chịu trách
nhiệm về nội dung trong công trình, và nội dung bao gồm những dữ liệu
hay diễn giải của tác giả. Luận án không chỉ đơn thuần là sao chép từ
nguồn khác được.
Đạo văn được định nghĩa là sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác
một cách không thích hợp (tức không ghi rõ nguồn gốc), đặc biệt là việc
trình bày những ý tưởng và từ ngữ của người khác trước các diễn đàn
khoa học và công cộng như là ý tưởng và từ ngữ của chính mình. Ở đây,
“Ý tưởng và từ ngữ của người khác” có nghĩa là: sử dụng công trình hay
tác phẩm của người khác, lấy ý tưởng của người khác, sao chép nguyên bản
từ ngữ của người khác mà không ghi nguồn, sử dụng cấu trúc và cách lí
giải của người khác mà không ghi nhận họ, và lấy những thông tin chuyên
ngành mà không đề rõ nguồn gốc.
Có thể lấy thêm một ví dụ để hiểu rõ vấn đề trích dẫn và đạo văn. Giả
dụ rằng chị Thanh Hương phát hiện gen ABC có liên quan đến bệnh còi
xương, và nghiên cứu sinh muốn trích dẫn công trình này. Nếu nghiên cứu
sinh viết rằng “Nghiên cứu trên 150 bệnh nhân gốc Việt cho thấy gen ABC
là một trong những yếu tố tăng nguy cơ bệnh còi xương” thì được xem là
vi phạm đạo đức học thuật. Nhưng nếu nghiên cứu đó viết “Nghiên cứu
trên 150 bệnh nhân gốc Việt cho thấy gen ABC là một trong những yếu tố
tăng nguy cơ bệnh còi xương (Thanh Hương 2007)” thì không vi phạm đạo
đức học thuật. Cái khác biệt giữa 2 câu văn là trích dẫn nguồn. Dùng ý
tưởng hay thông tin của người khác thì phải trích dẫn nguồn; không trích
dẫn là vi phạm đạo đức khoa học và được xem là đạo văn vì nó cho người
đọc cảm nhận [sai] rằng người viết là tác giả của thông tin đó.
Có thể xem qua vài đoạn trong luận án của hai ông Hoàng Xuân Quế (HXQ) và Mai Thanh Quế (MTQ) rất giống nhau về cấu trúc:
Tên tiêu đề:
HXQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
MTQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
Thống kê: 19/24 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông MTQ.
HXQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
MTQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
Thống kê: 19/24 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông MTQ.
HXQ: Học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển.
MTQ: Học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển.
Thống kê: 16/18 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với MTQ.
MTQ: Học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển.
Thống kê: 16/18 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với MTQ.
Có thể xem thêm ở đây: https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LNm1hOEFicUhHMEk/edit
Và rất nhiều đoạn như thế. Chú ý là ngay cả tiêu đề mà cũng trùng hợp nhau!
Các bạn quan tâm có thể tham khảo luận án của ông Mai Thanh Quế:
https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LN1AzTDJPSXZfUlE/edit
và luận án của ông Hoàng Xuân Quế ở đây:
https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LOHRwTnl5ZEYwMXc/edit
Trích dẫn mà không ghi nguồn là một hình thức đạo văn. Người đi sau
đứng trên vai của người đi trước. Một luận án dĩ nhiên phải có trích dẫn
từ nhiều nguồn đã được lưu trữ trước đây. Nhưng trích dẫn phải tuân thủ
theo những qui ước khoa học. Qui ước này bao gồm cách trích dẫn tài
liệu, cách viết hay diễn giải, cách ghi nguồn, v.v. Ở nước ngoài, học
trò trung học và sinh viên đại học đều phải biết những qui ước rất cơ
bản này. Ở Việt Nam cũng có sách vở và tài liệu về những qui ước trích
dẫn tài liệu khoa học. Chẳng hạn như có một qui ước đơn giản là khi dùng
hay sao chép hơn 3 hay 4 từ liên tục từ một nguồn thì cần phải
để trong ngoặc kép hoặc đề nguồn. Trích dẫn mà không ghi nguồn là đạo
văn. Ở đây, có đến 34% câu chữ trong luận án của ông HXQ trùng hợp với
luận án của ông MTQ thì tôi nghĩ rất khó thuyết phục rằng sự trùng hợp
đó không phải là đạo văn.
Thứ hai là vấn đề đạo văn có liên quan gì đến dung lượng luận án? Ông luật sư còn lí giải rằng Bộ GDĐT có qui định “Luận
án tiến sĩ có khối lượng khoảng 100 trang A4, trong đó trên 50% là
trình bày các kết quả nghiên cứu và biện luận của riêng nghiên cứu sinh.
Như vậy, thì đương nhiên phải hiểu rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho
phép nghiên cứu sinh được đưa vào Luận án dưới 50% nội dung không phải
là của mình?” Trước hết, tôi rất ngạc nhiên là Bộ GDĐT lại đề ra
những qui định thuộc về học thuật như thế này! Đáng lẽ đây là việc làm
của đại học, chứ không phải của Bộ.
Nhưng vấn đề ở đây là “nội dung” gì. Nội dung là thông tin hay từ
ngữ? Dùng thông tin của người khác mà không trích dẫn là phạm tội đạo
văn. Dùng từ ngữ của người khác mà không để trong ngoặc kép cũng là đạo
văn. Do đó, không thể biện minh rằng nghiên cứu sinh có thể dùng 50%
thông tin hay câu văn của người khác là chấp nhận được. Dùng thông tin
của người khác nhưng được viết lại bằng từ ngữ của mình và có trích dẫn
thì mới đúng qui ước khoa học.
Dù gì đi nữa thì tôi e rằng lí giải này cũng là một nguỵ biện. Một
luận án, cho dù 100 hay 500 trang, thì vẫn phải có 4 phần chính: dẫn
nhập, phương pháp, kết quả, và định hướng tương lai. Phần dẫn nhập, tác
giả làm một tổng quan về đề tài nghiên cứu, và dĩ nhiên phải trích dẫn
từ nguồn khác. Phần này thường chiếm 1/5 luận án (về số trang). Tổng
quan xong, tác giả phải nhận ra khoảng trống tri thức và đề ra mục tiêu
nghiên cứu để lấp vào những khoảng trống tri thức đó. Phần này chẳng có
dữ liệu nào là của tác giả, nhưng chữ nghĩa PHẢI LÀ của tác giả. Phần
kết quả thì bắt buộc 100% phải là của tác giả. Phần kết quả là “trái
tim” của luận án, nên nếu trái tim này của người khác thì làm sao chấp
nhận được. Phần định hướng tương lai có thể trích dẫn từ nguồn khác,
nhưng chữ nghĩa PHẢI LÀ của tác giả. Do đó, không nên có những qui định
kì quặc với những con số lạ lùng và phi khoa học như 50%.
Thứ ba là vai trò của người duyệt luận án và đạo văn. Ông luật sư biện minh rằng luận án của ông Hoàng Xuân Quế đã được hội đồng chấm Luận án cấp nhà nước thông qua và cho điểm 7/7. Ông lí giải rằng nếu luận án có đạo văn thì “sai phạm của ông Quế chỉ là phụ, mà sai phạm chính phải là của những người phản biện và các thành viên Hội đồng vì đã vi phạm các quy định tại Điều 26 Quy chế.” Ở đây, vấn đề bị đánh tráo sang hội đồng chấm luận án! Đúng là Hội đồng cũng có trách nhiệm một phần về chất lượng luận án, nhưng Hội đồng không có nhiệm vụ thẩm định đạo văn.
Thứ ba là vai trò của người duyệt luận án và đạo văn. Ông luật sư biện minh rằng luận án của ông Hoàng Xuân Quế đã được hội đồng chấm Luận án cấp nhà nước thông qua và cho điểm 7/7. Ông lí giải rằng nếu luận án có đạo văn thì “sai phạm của ông Quế chỉ là phụ, mà sai phạm chính phải là của những người phản biện và các thành viên Hội đồng vì đã vi phạm các quy định tại Điều 26 Quy chế.” Ở đây, vấn đề bị đánh tráo sang hội đồng chấm luận án! Đúng là Hội đồng cũng có trách nhiệm một phần về chất lượng luận án, nhưng Hội đồng không có nhiệm vụ thẩm định đạo văn.
Tôi nghĩ có lẽ ông luật sư vì chưa am hiểu hoạt động nghiên cứu khoa
học nên phát biểu hơi lệch. Chuyên gia bình duyệt có nhiệm vụ chính là
thẩm định luận án về mặt ý tưởng và phương pháp, chứ họ không có nhiệm
vụ kiểm tra đạo văn. Rất hiếm ai có thể phát hiện đạo văn trong một luận
án dài cả vài trăm trang. Mỗi chuyên gia tập trung vào vài khía cạnh
trong luận án mà họ quan tâm, và do đó, không thể kì vọng họ phát hiện
đạo văn trong các phần khác của luận án. Trong thực tế có người phát
hiện đạo văn một cách tình cờ (và tôi có kinh nghiệm cá nhân về phát
hiện đạo văn) chứ rất khó làm một cách có hệ thống.
Nói cho công bằng, khi sự việc tiêu cực xảy ra thì 2 người chịu trách
nhiệm chính là nghiên cứu sinh và người thầy/cô hướng dẫn. Nếu thầy cô
hướng dẫn tốt thì nạn đạo văn rất khó xảy ra. Ở nước ngoài, thầy trò
gặp nhau hàng tháng, thậm chí hàng tuần. Hết họp nhóm, họp lab, đến họp
toàn khoa, và mỗi lần kết quả được trình bày thì ai cũng soi mói kĩ, rất
khó có chuyện nguỵ tạo dữ liệu. Thầy cô khi sửa bài cho nghiên cứu sinh
cũng phải đọc kĩ, sửa từng bước, thì rất khó có nạn đạo văn xảy ra.
Nhưng tôi thấy rất nhiều thầy cô hướng dẫn ở Việt Nam chưa làm đúng vai
trò của người hướng dẫn, họ để cho nghiên cứu sinh “tự bơi” là chính.
Đó cũng là một trong những lí do tại sao nạn đạo văn ở VN khá phổ biến
so với nước ngoài.
Nhưng tôi cũng nghĩ không nên qui kết "tội" cho ông Hoàng Xuân Quế,
vì đây là vấn đề hệ thống và "hệ thống" phải chịu trách nhiệm một phần.
Hệ thống ở đây là các đại học chưa có những qui chế, hướng dẫn cụ thể
thế nào là đạo văn, và chưa có cơ chế xử lí vấn đề. Ở nước ngoài, khi
nghiên cứu bắt đầu nghiên cứu, họ được trang bị những kiến thức về đạo
đức khoa học (kể cả đạo văn), và cảnh báo rằng "luật chơi" học thuật là
nếu nghiên cứu sinh vi phạm thì sẽ bị tước bằng. Trong thực tế ở nước
ngoài cũng xảy ra vài vụ đạo văn, và việc tước bằng rất hiếm khi xảy ra
vì người ta cho nghiên cứu sinh cơ hội để chỉnh sửa. Tôi nghĩ trong
trường hợp này (ông Hoàng Xuân Quế), cách giải quyết tốt nhất là cho ông
cơ hội viết lại luận án, và nếu cần, cho một hội đồng độc lập đánh giá.
Quyết định tước lấy bằng cấp của một cá nhân trong khi các thầy cô
hướng dẫn phản đối là một quyết định cần phải xem xét lại.
Trường hợp này không phải là đầu tiên, và chắc chắn không phải là lần
sau cùng. Trong môi trường học thuật còn nhiều bất cập như hiện nay (và
trong quá khứ), tôi đoán rằng có nhiều luận án nếu soi xét kĩ thế nào
cũng phát hiện đạo văn. Có lẽ cái khác biệt là bị phát hiện và chưa phát
hiện mà thôi.
Cá nhân tôi rất ngạc nhiên là luận án tiến sĩ kinh tế ở Việt Nam sao
quá đơn giản! Nhìn chung, cả hai luận án đều khá đơn giản và giống như
luận án cử nhân hay masters (cao học) ở nước ngoài hơn là một luận án
tiến sĩ. Cả hai luận án chỉ có 3 chương, và dài độ 180 trang (tính luôn
cả phần tài liệu tham khảo và phụ lục). Một luận án cao học hay cử nhân
hạng danh dự ngoài này cũng cỡ 150-200 trang. Cách viết tài liệu tham
khảo của hai luận án vừa đề cập cũng chẳng đâu vào đâu, và chẳng tuân
thủ theo qui ước viết tài liệu tham khảo của các tập san quốc tế. Tôi
nghĩ nếu chỉ nhìn qua hai luận án này thì tiêu chuẩn học thuật cho một
tiến sĩ ở VN còn rất khác xa so với chuẩn mực của các đại học nước
ngoài.
Tôi nghĩ sự việc xảy ra một lần nữa nhấn mạnh đến ý nghĩa của công bố
quốc tế. Thông thường, một luận án tiến sĩ bao gồm 2-3 bài báo đã công
bố trên các tập san chuyên ngành có bình duyệt (peer reviewed journals).
Vì có bình duyệt và công bố quốc tế, mức độ exposure rất lớn, nên nếu
có đạo văn hay có vấn đề gì thì đồng nghiệp quốc tế sẽ phát hiện. Thỉnh
thoảng, một số bài báo được phát hiện đạo văn và phải rút lại ngay. Một
số tập san ngày nay có công cụ để dò xét bài báo có đạo văn hay không.
Công bố quốc tế do đó là một hình thức “thử acid” và tối thiểu hoá vấn
nạn đạo văn.
Ở VN qui định công bố quốc tế chưa được áp dụng nghiêm chỉnh hay chưa
áp dụng nên rất khó biết luận án có xứng đáng luận án tiến sĩ hay không
hay có đạo văn hay không. Để đến khi phát hiện thì sự việc xem như “đã
rồi”, làm phiền phức cho đương sự và gây “ô nhiễm” học thuật cho cả một
cộng đồng. Tôi nghĩ qua vụ việc này, các đại học Việt Nam nên có qui chế
về đạo đức khoa học, và đưa công bố quốc tế thành một trong những tiêu
chuẩn để cấp bằng tiến sĩ.